Phát triển nông nghiệp hữu cơ: Nhiều thuận lợi, lắm thách thức

Là một nước nông nghiệp, VN có quá nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển nông nghiệp hữu cơ (NNHC). Sản xuất quảng canh, tự cung tự cấp, dựa vào thiên nhiên là chính, nên người nông dân biết tận dụng những gì có sẵn ngoài tự nhiên để phục vụ cho nông nghiệp. Tuy nhiên đến nay, việc phát triển NNHC vẫn còn lắm thách thức, gian nan…
Sản xuất dưa lưới xuất khẩu theo phương pháp NNHC, không hoá chất. Ảnh: N.Q.H

Quá nhiều tiềm năng, đan xen vô số khó khăn

Theo PGS.TS. Nguyễn Xuân Hồng – nguyên Cục trưởng Cục bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT): “VN có rất nhiều điều kiện để phát triển NNHC như khí hậu, độ ẩm ướt, gió mùa… tác động các chất hữu cơ chuyển hoá tốt thành khoáng chất cung cấp cho cây trồng. Rồi, phân xanh, phân hữu cơ khá phong phú… Nguồn lao động cho sản xuất NNHC dồi dào.v.v…”. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên Liên đoàn các phong trào NNHC quốc tế (IFOAM) đã công nhận VN là nước có sản xuất NNHC.

Năm 2015, diện tích đất NNHC của VN là 76.666 ha, tương đương 0,7% diện tích đất nông nghiệp; với số lượng nông dân sản xuất NNHC là 3.816 người… Tuy nhiên, IFOAM cũng cho rằng VN là quốc gia “chưa có quy định pháp luật về NNHC”. Đây chính là những khó khăn, thách thức đối với VN trên con đường phát triển NNHC. Ông Phạm Đồng Quảng – chuyên gia Bộ NN-PTNT cho biết: “Thay vì canh tác hữu cơ như truyền thống hàng ngàn năm, chỉ sử dụng phân bón hữu cơ, phòng trừ cỏ dại, sâu bệnh bằng biện pháp thủ công.v.v… Trái lại, suốt thời gian dài, người ta đã sử dụng nhiều phân bón hoá học và hoá chất bảo vệ thực vật...Tất cả chỉ nhằm mục đích đạt hiệu quả nhanh hơn. Nhưng ngược lại, gây ra hậu quả xấu tới đất đai (bị thoái hoá, mất chất dinh dưỡng), sức khoẻ con người, vì nhiễm độc”.

Ông Đặng Tuấn Hưng – đại diện HTX hồ tiêu hữu cơ Bình Thuận – nói: “Việc sử dụng các loại hoá chất làm hại giống nòi VN”. Mặt khác, ông Hưng cũng báo động có quá nhiều rào cản về cơ chế, chính sách từ chính cơ quan công quyền đã khiến cho các tổ chức, DN phát triển NNHC gặp rất nhiều khó khăn. “Người nông dân đã hạn chế về hiểu biết, thêm thiếu cán bộ khuyến nông hướng dẫn, thì làm sao sản xuất NNHC? Cán bộ ngân hàng hiểu … lơ mơ về NNHC, nên các DN hay HTX sản xuất NNHC khó vay vốn… Ngoài thị trường, khái niệm NNHC lẫn lộn, không biết đâu là DN, sản phẩm NNHC thật hay giả.v.v… Vì vậy, phát triển NNHC hiện nay ở VN là một thách thức” – ông Hưng nói. 

Khởi nghiệp bằng nghề trồng nấm sạch tại một trang trại thuộc miền Đông Nam bộ. Ảnh: QUANG HÙNG
Khởi nghiệp bằng nghề trồng nấm sạch tại một trang trại thuộc miền Đông Nam bộ. Ảnh: QUANG HÙNG

Luật hóa NNHC, tại sao không ?

Theo ông Nguyễn Xuân Hồng: “Thúc đẩy phát triển NNHC cần có nhiều giải pháp đồng bộ. Tuy nhiên, ở VN, chính sách, pháp luật liên quan đến NNHC còn thiếu. Và, đây là nút thắt chính cần tháo gỡ để mở đường cho sự phát triển của NNHC trong tương lai”. Ông Nguyễn Công Thành (Viện Khoa học kỹ thuận nông nghiệp miền Nam), cho rằng: “Lẽ ra, phải luật hoá NNHC từ lâu. Nay, Bộ NN-PTNT mới dự thảo Nghị định về phát triển NNHC trình Chính phủ là… quá muộn. Nhưng muộn, còn hơn không”. Đa số các ý kiến cho rằng, chính sách pháp luật về NNHC phải trên nguyên tắc “6 không” trong quy trình sản xuất gồm: không phân bón hoá học, không thuốc trừ cỏ, không thuốc trừ sâu hoá học, không chất kích thích tăng trưởng, không hoá chất bảo quản, không biến đổi gen.

Ông Phạm Văn Tuấn – đại diện DN về giải pháp phát triển NNHC ở tỉnh Lâm Đồng – nói: “Việc Chính phủ cho ra đời Nghị định về sản xuất NNHC là một bước tiến lớn. Song, chính sách này phải quy định cho được một tiêu chuẩn về NNHC tương thích với các tiêu chuẩn NNHC của các nước trên thế giới. Nghị định phải quy định đầy đủ về giống, nguồn nhân lực sản xuất NNHC, việc vận chuyển, vùng trồng NNHC, tín dụng ưu đãi, bổ sung logistics, truyền thông nâng cao nhận thức cho người dân về NNHC.v.v…”.

Trong lúc đó, ông Hoàng Bá Nghị - chuyên gia về cấp giấy chứng nhận sản phẩm tiêu chuẩn quốc tế , thuộc lĩnh vực nông nghiệp, góp ý: “Nghị định về NNHC cần quy định những nội dung như: yêu cầu đối với thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ và được dán nhãn “hữu cơ”. Điều kiện và thẩm quyền chỉ định các tổ chức chứng nhận thực phẩm hữu cơ; quy trình chứng nhận, lô gô quốc gia được dán trên bao gói thực phẩm hữu cơ; thẩm quyền ban hành các tiêu chuẩn và trách nhiệm quản lý thực phẩm hữu cơ của các cơ quan quản lý nhà nước”.

Ông Lê Thành Hưng (Viện Tiêu chuẩn chất lượng VN) thì nhấn mạnh: “Phải bổ sung, sửa đổi tiêu chuẩn quốc gia về NNHC ở VN. Quy định cụ thể yêu cầu đối với từng nhóm sản phẩm hữu cơ; quy định rõ những loại vật tư đầu vào bị cấm và các chất được sử dụng trong sản xuất NNHC… Quy định pháp luật về quản lý sản xuất, chứng nhận, dán nhãn… vừa bảo đảm nguyên tắc NNHC, mà cũng phù hợp với điều kiện cụ thể của VN, vừa hài hoà với quy định của các nước trên thế giới và khu vực”.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam nói: “Thị trường hiện nay xuất hiện nhiều loại sản phẩm đóng nhãn, mác thực phẩm hữu cơ, nhưng chưa thật sự phù hợp với tiêu chuẩn về NNHC, không đáp ứng các yêu cầu an toàn thực phẩm, khiến người dân hoang mang… Vì vậy, việc lấy ý kiến về quản lý NNHC để xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật thật sự là cần thiết. Điều này cũng tạo điều kiện cho phát triển NNHC ở VN đúng hướng, tạo niềm tin cho người sản xuất, DN và cả người tiêu dùng”.

Theo Cao Hùng/laodong.vn