“Anh Hai nông thôn mới”
- Thứ tư - 20/03/2013 20:40
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Hiến đất làm đường
Chúng tôi tới bản Coong Lẹng khi người dân nơi đây bắt đầu vào vụ thu hoạch chè xuân. Đoạn đường bê tông đầu bản bên bãi đá trắng được mọi người chọn làm nơi tập kết chè tươi. Từ đây bà con có thể chở chè về các hộ gia đình hay vận chuyển tới bán cho nhà máy chế biến chè thương phẩm rất dễ dàng. Và tôi được biết, đoạn đường bê tông này ngày trước là một phần đất thuộc nương chè nhà anh Ôn Văn Hai.
Chuyện là năm 2009, khi trên hỗ trợ xi măng làm đường bê tông, mà bản lại cần phải nắn đường cho thẳng và mở rộng mặt đường đúng theo quy định. Tuy nhiên, một số hộ dân không mấy mặn mà với chủ trương này, vì họ sợ đường sẽ lấn sang phần đất canh tác. Trước thực tế đó, anh Hai đã đăng ký hiến 300m2 đất nương chè nhà mình để phá khúc cua đầu bản. Sau đó anh đến các hộ gia đình giải thích cho đồng bào hiểu giá trị của con đường bê tông mở rộng, rồi vận động bà con hiến đất để mở rộng mặt đường.
Với lời lẽ mộc mạc, anh khẳng định với mọi người, đường bê tông sẽ góp phần phát triển kinh tế gia đình. Anh lấy ví dụ rất thực tế: Khi có đường đi thuận lợi, các phương tiện cơ giới di chuyển dễ dàng, khắc phục hoàn toàn tình trạng chè quá lứa do thu hoạch không kịp thời vụ đang diễn ra. Còn việc nắn đường, phá cua nguy hiểm sẽ giúp cho đường thẳng hơn, tầm nhìn không bị hạn chế, giảm tai nạn, người dân sẽ yên tâm hơn mỗi khi tham gia giao thông. Nắn đường còn tiết kiệm vật liệu, qua đó dành xi măng để đổ bê tông đến tận ngõ các hộ gia đình… Dù rất khó khăn trong những ngày đầu đi vận động, thời điểm đó một số gia đình còn không muốn tiếp chuyện anh, nhưng sau một tháng kiên trì, anh đã thu được kết quả lớn. Các gia đình trong bản đã hiến hơn 3000m2 đất để con đường bê tông dài 5km rộng 3m đến tận ngõ các nhà hoàn thành nhanh chóng.
Ngoài ra, anh Ôn Văn Hai còn vận động 10 gia đình trong bản hiến 800m2 đất ở nương chè, ruộng lúa làm cột điện hạ thế phục vụ điện thắp sáng, điện sinh hoạt cho cả bản.
Khoan giếng nước tưới chè
Lấy vợ năm 1988 thì năm 1989, chàng thanh niên Ôn Văn Hai lên đường nhập ngũ tại Đại đội 17, Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng. Tiễn chồng lên đường, vợ anh nước mắt lưng tròng dúi vào tay người chiến sĩ trẻ 3 củ sắn luộc được gói cẩn thận trong lá dong, nghẹn ngào:
- Anh đi đường ăn cho đỡ đói!
Vì ngày đó bản anh nghèo lắm, nhà nào cũng phải ăn độn khoai, sắn. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về quê hương, anh quyết định thay đổi phương pháp trồng và chăm sóc cây chè, với quan điểm, muốn thoát nghèo cần phải phát huy được cây thế mạnh của địa phương.
Anh đi tham khảo và học tập kỹ thuật trồng chè ở Khoa Lâm nghiệp của Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và quyết định đốn trẻ lại toàn bộ nương chè rộng gần 1ha đã hơn 20 năm tuổi. Điều này khiến bà con trong bản hết sức ngạc nhiên vì từ trước tới nay người dân chỉ quen đốn phớt, đốn lửng.
Nhìn nương chè chỉ trơ lại toàn gốc cách mặt đất chưa đến 20cm, nhiều người đã gặp riêng anh tỏ ý phê phán, họ cho rằng đầu óc anh có vấn đề nên mới đốn chè cụt lủn, biết bao giờ cây mới lớn lên được như cũ. Anh khuyên mọi người làm theo mình thì họ đều lắc đầu. Anh động viên vợ, thôi thì lấy ngắn nuôi dài, làm ruộng thu lương thực phục vụ cho việc cải tạo lại đồi chè. Cây đốn xong anh cuốc rãnh bỏ phân xanh, phân chuồng và rắc vôi bột để tạo màu, giảm độ chua cho đất, qua đó kích thích cây chè sinh trưởng nhanh. Sau hai năm, những cây chè trơ gốc ngày nào đã cho thu hoạch với chất lượng chè rất cao: Búp to, thân nõn dẻo, cánh lá dày. Và để cây cho búp quanh năm, hạn chế sâu bệnh, anh đã vay tiền của họ hàng khoan giếng tưới chè.
Khi tới nơi này, được tham quan hệ thống tưới cho cây chè của anh Hai khiến chúng tôi không khỏi ngạc nhiên, vì toàn bộ giếng và ống dẫn nước đều xuất phát từ đỉnh đồi cao. Giải thích điều này anh Hai cho hay, cái quan trọng khi khoan giếng là phải tìm được nguồn nước ngầm trong lòng đất. Để có 3 chiếc giếng sâu chưa tới 20m mà bơm liên tục không hết nước, anh đã học hỏi kinh nghiệm của một người bà con ở xã Đội Cấn, thành phố Tuyên Quang (Tuyên Quang). Đó là cuốc một cái hố nhỏ và lấy lá cây ngái đặt úp dưới hố qua đêm, sáng hôm sau, ra kiểm tra nếu mặt dưới của lá ngái đọng nước thì nơi ấy có mạch nước ngầm. Theo anh Hai, một chiếc giếng khoan chi phí khoảng 6 triệu đồng (gồm công khoan, máy bơm, đường ống, dây dẫn) có thể tưới cho 5 sào chè. Với diện tích đó chỉ sau một vụ, người trồng chè có thể hoàn lại vốn đầu tư.
Vì được tưới đủ nước nên nương chè nhà anh Hai rất ít sâu bệnh, sinh trưởng nhanh, năng suất cao. Nếu như năm 1995, một lứa chè là hai tháng, năng suất đạt 4-5kg chè khô/sào, thì tới năm 2012, một lứa chè nhà anh được rút ngắn xuống còn 20 ngày, năng suất tăng gần 7 lần, là 26-30kg chè khô/sào, bởi vậy gia đình anh Hai đã có của ăn của để. Từ thành công của việc khoan giếng tưới chè, anh tiếp tục đầu tư khoan giếng tưới cho lúa và hoa màu để thâm canh, tăng vụ.
Khi đã có thu nhập từ nương chè và ruộng vườn, vợ chồng anh đầu tư chăn nuôi gia súc, gia cầm, kinh doanh máy xay sát kết hợp với trồng rừng. Lúc chúng tôi tới, gia đình anh đang nuôi 4 con trâu, 20 con lợn sắp xuất chuồng và có gần 1ha keo lai chuẩn bị cho thu hoạch... Nhờ có phương pháp tăng gia, phát triển kinh tế phù hợp nên từ năm 2009 đến nay, thu nhập hằng năm của gia đình anh đều đạt gần 300 triệu đồng (là hộ nghèo năm 2000, tới nay gia đình anh đã trở thành hộ giàu của xã). Từ kinh nghiệm trong thực hiện mô hình phát triển kinh tế của mình mà anh Ôn Văn Hai luôn nhiệt tình tư vấn, hướng dẫn nhiều hộ gia đình trong bản, trong xã và các địa phương lân cận phương pháp đốn, chăm sóc chè và tìm nguồn nước ngầm. Trong đó điển hình là hai gia đình hội viên cựu chiến binh (gia đình ông Ôn Văn Thái, Ôn Văn Vượng) và hai gia đình hội nông dân của bản (gia đình ông Nguyễn Dũng Cường, Nguyễn Xuân Hải) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được anh giúp đỡ đã vươn lên thoát nghèo bền vững.
“Bác sĩ” của bản
Ông Đoàn Công Mấu, 70 tuổi ở bản Coong Lẹng, khẳng định với chúng tôi:
- Nếu không có anh Hai thì giờ này tôi đã nằm dưới cỏ rồi.
Chuyện là, vào đầu năm 2009, nghe tin ông Mấu bị ốm, anh Hai tới nhà ông hỏi thăm. Anh rất ngạc nhiên vì ông gầy đi rất nhiều so với thời điểm cuối năm 2008. Tìm hiểu anh Hai được biết ông có biểu hiện đau ngực, khó thở, sốt cao về chiều và đêm, ra mồ hôi trộm, chán ăn. Anh “chẩn đoán” ông bị bệnh lao phổi và khuyên ông đi khám tại trạm y tế xã. Được điều trị kịp thời nên ông Mấu đã khỏi bệnh.
Anh Hai cho biết, muốn vươn lên làm giàu ngoài tinh thần quyết tâm, phải có sức khỏe, mà muốn chăm sóc sức khỏe cho bản thân, gia đình và mọi người xung quanh được tốt cần có sự hiểu biết nhất định về y học. Như việc anh phát hiện ra bệnh lao của ông Mấu, hay khi anh đến các hộ gia đình trong bản vận động, hướng dẫn nhân dân phương pháp ăn ở vệ sinh khoa học, chăm sóc sức khỏe bản thân, trồng và sử dụng các cây thuốc nam tại gia đình để phòng và chữa một số bệnh thông thường như bệnh về đường tiêu hóa, đường hô hấp, điều trị cảm lạnh, say nắng, sốt cao… là do anh đọc, nghiên cứu tài liệu mà nắm được.
Sự hiểu biết về y học và lòng nhiệt tình của anh được bà con nơi đây hào hứng đón nhận, nên từ năm 2010 đến nay bản Coong Lẹng không có dịch bệnh trên người và gia súc, gia cầm, không có trẻ suy dinh dưỡng; 100% gia đình trong bản đã làm nhà tiêu hợp vệ sinh. Điều này được ông Ôn Đức Lâm, Trưởng bản Coong Lẹng khẳng định: Bà con luôn coi anh Hai như là “bác sĩ” của bản.
Chúng tôi rời Coong Lẹng khi trời đã về chiều, anh Ôn Văn Hai lại tất bật lên đường. Anh khoác trên vai chiếc ba lô người lính đã nhuốm màu đất vàng quạch đi về phía cuối bản, đến giúp ông Ôn Văn Sơn tìm vị trí khoan giếng. Bóng của anh nhỏ dần rồi khuất sau đồng chè xanh ngát. Tôi biết những bước chân vội vàng của anh đã góp phần không nhỏ cho sự đổi thay trên quê hương mình. Nhờ anh mà bản Coong Lẹng, với hơn 90% người dân tộc thiểu số đã cơ bản hoàn thành nhiều chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới. Anh Hai được bà con tín nhiệm bầu là người có uy tín trong cộng đồng người dân tộc thiểu số và gọi anh với cái tên thân mật “Anh Hai nông thôn mới”.
Bài và ảnh: MÈ QUANG THẮNG
theo qdnd
Chúng tôi tới bản Coong Lẹng khi người dân nơi đây bắt đầu vào vụ thu hoạch chè xuân. Đoạn đường bê tông đầu bản bên bãi đá trắng được mọi người chọn làm nơi tập kết chè tươi. Từ đây bà con có thể chở chè về các hộ gia đình hay vận chuyển tới bán cho nhà máy chế biến chè thương phẩm rất dễ dàng. Và tôi được biết, đoạn đường bê tông này ngày trước là một phần đất thuộc nương chè nhà anh Ôn Văn Hai.
Anh Ôn Văn Hai. |
Với lời lẽ mộc mạc, anh khẳng định với mọi người, đường bê tông sẽ góp phần phát triển kinh tế gia đình. Anh lấy ví dụ rất thực tế: Khi có đường đi thuận lợi, các phương tiện cơ giới di chuyển dễ dàng, khắc phục hoàn toàn tình trạng chè quá lứa do thu hoạch không kịp thời vụ đang diễn ra. Còn việc nắn đường, phá cua nguy hiểm sẽ giúp cho đường thẳng hơn, tầm nhìn không bị hạn chế, giảm tai nạn, người dân sẽ yên tâm hơn mỗi khi tham gia giao thông. Nắn đường còn tiết kiệm vật liệu, qua đó dành xi măng để đổ bê tông đến tận ngõ các hộ gia đình… Dù rất khó khăn trong những ngày đầu đi vận động, thời điểm đó một số gia đình còn không muốn tiếp chuyện anh, nhưng sau một tháng kiên trì, anh đã thu được kết quả lớn. Các gia đình trong bản đã hiến hơn 3000m2 đất để con đường bê tông dài 5km rộng 3m đến tận ngõ các nhà hoàn thành nhanh chóng.
Ngoài ra, anh Ôn Văn Hai còn vận động 10 gia đình trong bản hiến 800m2 đất ở nương chè, ruộng lúa làm cột điện hạ thế phục vụ điện thắp sáng, điện sinh hoạt cho cả bản.
Khoan giếng nước tưới chè
Lấy vợ năm 1988 thì năm 1989, chàng thanh niên Ôn Văn Hai lên đường nhập ngũ tại Đại đội 17, Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng. Tiễn chồng lên đường, vợ anh nước mắt lưng tròng dúi vào tay người chiến sĩ trẻ 3 củ sắn luộc được gói cẩn thận trong lá dong, nghẹn ngào:
- Anh đi đường ăn cho đỡ đói!
Vì ngày đó bản anh nghèo lắm, nhà nào cũng phải ăn độn khoai, sắn. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về quê hương, anh quyết định thay đổi phương pháp trồng và chăm sóc cây chè, với quan điểm, muốn thoát nghèo cần phải phát huy được cây thế mạnh của địa phương.
Anh đi tham khảo và học tập kỹ thuật trồng chè ở Khoa Lâm nghiệp của Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và quyết định đốn trẻ lại toàn bộ nương chè rộng gần 1ha đã hơn 20 năm tuổi. Điều này khiến bà con trong bản hết sức ngạc nhiên vì từ trước tới nay người dân chỉ quen đốn phớt, đốn lửng.
Nhìn nương chè chỉ trơ lại toàn gốc cách mặt đất chưa đến 20cm, nhiều người đã gặp riêng anh tỏ ý phê phán, họ cho rằng đầu óc anh có vấn đề nên mới đốn chè cụt lủn, biết bao giờ cây mới lớn lên được như cũ. Anh khuyên mọi người làm theo mình thì họ đều lắc đầu. Anh động viên vợ, thôi thì lấy ngắn nuôi dài, làm ruộng thu lương thực phục vụ cho việc cải tạo lại đồi chè. Cây đốn xong anh cuốc rãnh bỏ phân xanh, phân chuồng và rắc vôi bột để tạo màu, giảm độ chua cho đất, qua đó kích thích cây chè sinh trưởng nhanh. Sau hai năm, những cây chè trơ gốc ngày nào đã cho thu hoạch với chất lượng chè rất cao: Búp to, thân nõn dẻo, cánh lá dày. Và để cây cho búp quanh năm, hạn chế sâu bệnh, anh đã vay tiền của họ hàng khoan giếng tưới chè.
Anh Ôn Văn Hai (người cầm cuốc) hướng dẫn người dân bản Coong Lẹng phương pháp bón phân cho cây chè. |
Vì được tưới đủ nước nên nương chè nhà anh Hai rất ít sâu bệnh, sinh trưởng nhanh, năng suất cao. Nếu như năm 1995, một lứa chè là hai tháng, năng suất đạt 4-5kg chè khô/sào, thì tới năm 2012, một lứa chè nhà anh được rút ngắn xuống còn 20 ngày, năng suất tăng gần 7 lần, là 26-30kg chè khô/sào, bởi vậy gia đình anh Hai đã có của ăn của để. Từ thành công của việc khoan giếng tưới chè, anh tiếp tục đầu tư khoan giếng tưới cho lúa và hoa màu để thâm canh, tăng vụ.
Khi đã có thu nhập từ nương chè và ruộng vườn, vợ chồng anh đầu tư chăn nuôi gia súc, gia cầm, kinh doanh máy xay sát kết hợp với trồng rừng. Lúc chúng tôi tới, gia đình anh đang nuôi 4 con trâu, 20 con lợn sắp xuất chuồng và có gần 1ha keo lai chuẩn bị cho thu hoạch... Nhờ có phương pháp tăng gia, phát triển kinh tế phù hợp nên từ năm 2009 đến nay, thu nhập hằng năm của gia đình anh đều đạt gần 300 triệu đồng (là hộ nghèo năm 2000, tới nay gia đình anh đã trở thành hộ giàu của xã). Từ kinh nghiệm trong thực hiện mô hình phát triển kinh tế của mình mà anh Ôn Văn Hai luôn nhiệt tình tư vấn, hướng dẫn nhiều hộ gia đình trong bản, trong xã và các địa phương lân cận phương pháp đốn, chăm sóc chè và tìm nguồn nước ngầm. Trong đó điển hình là hai gia đình hội viên cựu chiến binh (gia đình ông Ôn Văn Thái, Ôn Văn Vượng) và hai gia đình hội nông dân của bản (gia đình ông Nguyễn Dũng Cường, Nguyễn Xuân Hải) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được anh giúp đỡ đã vươn lên thoát nghèo bền vững.
“Bác sĩ” của bản
Ông Đoàn Công Mấu, 70 tuổi ở bản Coong Lẹng, khẳng định với chúng tôi:
- Nếu không có anh Hai thì giờ này tôi đã nằm dưới cỏ rồi.
Chuyện là, vào đầu năm 2009, nghe tin ông Mấu bị ốm, anh Hai tới nhà ông hỏi thăm. Anh rất ngạc nhiên vì ông gầy đi rất nhiều so với thời điểm cuối năm 2008. Tìm hiểu anh Hai được biết ông có biểu hiện đau ngực, khó thở, sốt cao về chiều và đêm, ra mồ hôi trộm, chán ăn. Anh “chẩn đoán” ông bị bệnh lao phổi và khuyên ông đi khám tại trạm y tế xã. Được điều trị kịp thời nên ông Mấu đã khỏi bệnh.
Ông Ôn Văn Huân, Phó bí thư Đảng ủy xã Phúc Thuận khẳng định: Anh Ôn Văn Hai là tấm gương tiêu biểu trong thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới của địa phương. Mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình của anh Hai đã và đang được bà con các xóm, bản áp dụng để thoát nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Mô hình đó góp phần rất lớn để giảm tỷ lệ hộ nghèo của xã từ 42,8% năm 2005, tới nay chỉ còn 9,6%. |
Sự hiểu biết về y học và lòng nhiệt tình của anh được bà con nơi đây hào hứng đón nhận, nên từ năm 2010 đến nay bản Coong Lẹng không có dịch bệnh trên người và gia súc, gia cầm, không có trẻ suy dinh dưỡng; 100% gia đình trong bản đã làm nhà tiêu hợp vệ sinh. Điều này được ông Ôn Đức Lâm, Trưởng bản Coong Lẹng khẳng định: Bà con luôn coi anh Hai như là “bác sĩ” của bản.
Chúng tôi rời Coong Lẹng khi trời đã về chiều, anh Ôn Văn Hai lại tất bật lên đường. Anh khoác trên vai chiếc ba lô người lính đã nhuốm màu đất vàng quạch đi về phía cuối bản, đến giúp ông Ôn Văn Sơn tìm vị trí khoan giếng. Bóng của anh nhỏ dần rồi khuất sau đồng chè xanh ngát. Tôi biết những bước chân vội vàng của anh đã góp phần không nhỏ cho sự đổi thay trên quê hương mình. Nhờ anh mà bản Coong Lẹng, với hơn 90% người dân tộc thiểu số đã cơ bản hoàn thành nhiều chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới. Anh Hai được bà con tín nhiệm bầu là người có uy tín trong cộng đồng người dân tộc thiểu số và gọi anh với cái tên thân mật “Anh Hai nông thôn mới”.
Bài và ảnh: MÈ QUANG THẮNG
theo qdnd