Liên kết theo vùng sinh thái

Liên kết theo vùng sinh thái
Cuối tháng 5-2014, ĐBSCL đang bước vào giao mùa giữa mùa khô và mùa mưa. Chính vì vậy, thời điểm này thời tiết luôn diễn biến phức tạp, đang nắng nóng gay gắt chuyển sang mưa lớn kèm theo giông lốc, sét đánh, thậm chí ở khu vực ĐBSCL đã xuất hiện mưa đá lần đầu sau hàng chục năm. Đây là những dấu hiệu thời tiết cực đoan, đánh dấu biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng gia tăng...

Người giàu, người nghèo chung thiệt hại !

Chỉ tính riêng 4 tỉnh ven biển ở ĐBSCL là Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh đã có hơn 10.000ha tôm sú bị thiệt hại. “Năm ngoái, 50% diện tích tôm nuôi ở Vĩnh Châu - Sóc Trăng chết thành dịch, thiệt hại ước khoảng trên 110 tỉ đồng. Năm nay người nuôi làm ao đàng hoàng, chăm sóc kỹ lưỡng hơn nhưng tôm cũng chết trên 1.600ha” - ông Hai Nhiệm, nông dân ở Sóc Trăng than thở! Chuyện tôm chết có nhiều nguyên nhân tồn tại trong nhiều năm qua, như con giống, môi trường bị ô nhiễm… Tuy nhiên, nguyên nhân chính nổi lên năm 2014 là do nắng nóng. Trong khi đó, sự gia tăng của “lũ mặn” ở các vùng ven biển là một cảnh báo nhãn tiền về sự dâng cao của nước biển. Ghi nhận tại các tỉnh ven biển như Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu…, độ mặn năm nay đều cao hơn cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, tại Cà Mau độ mặn lên đến khoảng 30‰. Theo đó, “lũ mặn” ngày càng gay gắt, tình trạng thiếu nước ngọt trong sinh hoạt diễn ra trên diện rộng. Nhiều nơi, người dân phải mua nước ngọt xài với giá gần 200.000 đồng/m3. Trong khi đó, tình trạng khô hạn kèm theo nắng nóng làm hàng ngàn héc-ta nuôi tôm sú, lúa của người dân thiệt hại nặng nề. Theo Bộ NN&PTNT, hiện nay, ĐBSCL có trên 100.000ha đất sản xuất nông nghiệp bị “lũ mặn” đe dọa, gây thiệt hại.

Người nuôi tôm dù là giàu hay nghèo, người dân ở nông thôn vùng bán đảo Cà Mau hay ở các khu vực thành thị như Cần Thơ, thành phố Vị Thanh (Hậu Giang) đều chung một nỗi niềm là thiệt hại nặng nề do tôm chết; phải chạy đôn, chạy đáo tìm nguồn nước ngọt trong sinh hoạt gia đình. Đây là tình cảnh mà các nhà khoa học đã khuyến cáo về hậu quả của BĐKH: “Sớm mai thức dậy, người nghèo, người giàu, người  khôn, người dại… suy nghĩ và số phận của họ rất khác nhau… Nhưng hiểm họa có thể làm cho số phận họ như nhau”!

Các tỉnh, thành ĐBSCL gần như đã “thuộc lòng” các kịch bản BĐKH xảy ra khi các nhà khoa học đưa ra nhận định. Theo đó, với diện tích tự nhiên khoảng 4 triệu ha, địa hình bằng phẳng và thấp; bị ảnh hưởng của thủy triều và xâm nhập mặn hàng năm, ở ĐBSCL diện tích nhiễm mặn lên tới 1,7 triệu ha. Kịch bản BĐKH của Việt Nam, đến cuối thế kỷ này, nhiệt độ trung bình ở ĐBSCL có thể tăng thêm 1,3-2,80C, mưa có thể tăng 4-8%, nước biển dâng theo kịch bản thấp là 66cm, cao là 99cm. Nước biển dâng cao 1m có thể làm 39% diện tích ở ĐBSCL bị ngập, 35% dân số bị ảnh hưởng. ĐBSCL là vựa lúa, vựa thủy sản, trái cây… Hiện tại và tương lai, sự phát triển của ĐBSCL đang bị đe dọa. Đây là một trong những khu vực bị tổn thương nặng nề nhất của Việt Nam do tác động của BĐKH.

Lãng quên rừng phòng hộ ven biển !

 Nhiều dự án đã được triển khai để ĐBSCL ứng phó, thích ứng với BĐKH. Trong đó, Viện Nghiên cứu BĐKH (đại học Cần Thơ) đã đóng góp vai trò tích cực trong nhiều dự án, các hoạt động nghiên cứu liên quan đến BĐKH ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các dự án hợp tác với các tổ chức nghiên cứu khoa học. Nổi lên là dự án “Ảnh hưởng của BĐKH đến sử dụng đất ở ĐBSCL: sự thích ứng của các hệ thống canh tác trên nền lúa (dự án CLUES)”. Đây là dự án do Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Úc tài trợ thực hiện, nhằm tăng cường khả năng thích ứng của các hệ thống sản xuất lúa ở An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ đối với BĐKH, hỗ trợ kỹ thuật và cung cấp kiến thức canh tác mới cho nông dân, cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý và hoạch định chính sách nông nghiệp của các cơ quan, ban, ngành địa phương hướng đến đảm bảo sản xuất nông nghiệp bền vững và an ninh lương thực vùng ĐBSCL. Dự án “Phát triển nông thôn bền vững và ứng phó BĐKH vùng ĐBSCL tại tỉnh Bến Tre” sẽ được khởi động vào cuối tháng 5-2014 với tổng vốn  gần 25 triệu USD. Dự án triển khai tại 30 xã của tỉnh Bến Tre dựa trên ba tiêu chí là tỷ lệ hộ nghèo, tính dễ bị tổn thương BĐKH và chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Một số mô hình canh tác thích ứng với BĐKH sẽ được triển khai dựa trên các điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng (như độ mặn, phèn cao, tình trạng bị ngập nước). Dự kiến, sẽ có khoảng 125.000 người dân nghèo nông thôn được tạo thêm việc làm, tiếp thu kỹ thuật canh tác mới, cấp vốn mở rộng sản xuất và đào tạo nghề. 

Tuy nhiên, một vấn đề đang đặt ra là tính thống nhất, liên thông của các dự án thích ứng với BĐKH hiện nay. Gần như các tỉnh đều có dự án để ứng phó với BĐKH. Song, các dự án này chưa thể hiện rõ tính liên thông cấp vùng, vì BĐKH không chỉ xảy ra trên cấp độ địa giới hành chính. Ứng phó với BĐKH phải có tính liên kết, liên thông theo các vùng sinh thái. Trong khi đó, cách thức ứng phó với BĐKH và nước biển dâng cao đối với các tỉnh ven biển vẫn chưa có khuyến cáo khoa học rõ ràng. Các dự án đề xuất vẫn còn nặng tính địa phương, dễ thấy nhất là các dự án xin cấp vốn xây kè chống sạt lở, thiếu đánh giá vai trò hệ thống rừng ngập mặn ven biển. Trong khi đó, các nhà khoa học cũng chưa đánh giá hết hiệu quả cũng như tác động của việc xây đê ven biển! Vừa qua, tại Trà Vinh, hàng ngàn cây bần tại rừng phòng hộ Cồn Nạng (xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang) bị đốn hạ làm củi khiến người dân và chính quyền địa phương bức xúc. Theo người dân ở đây, rừng bần giúp chắn sóng, không gây sạt lở và làm không khí trong lành, bảo vệ sức khỏe người dân và thu lợi rất lớn trong việc đánh bắt hải sản. Việc rừng bần bị đốn hạ không thương tiếc là lời cảnh báo về sự thiếu hiểu biết cũng như trách nhiệm của các đơn phương rất lỏng lẻo trong bảo vệ hệ thống sinh thái ven biển.  

Đây cũng là lời cảnh báo để sớm hoàn thành các nghiên cứu ảnh hưởng BĐKH đến các vùng ngập nông, rìa vùng ngập lũ, ven biển… để đề xuất các giải pháp thích nghi với BĐKH ở các vùng sản xuất, sinh hoạt của người dân ĐBSCL. Trong đó, xu hướng các tỉnh nên liên kết theo vùng sinh thái, mặn ngọt, lũ, ven biển để ứng phó với BĐKH là tất yếu.

Giảm diện tích lúa vụ 3 để tăng khả năng trữ nước lũ

 “Sẽ có khoảng 600.000 euro dành cho ĐBSCL để nghiên cứu tăng cường khả năng chống chịu, thích ứng thông qua khôi phục khả năng trữ lũ và chức năng điều hòa lũ của vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên cũng như khôi phục khả năng cung cấp các dịch vụ sinh thái của hệ tự nhiên tại các vùng ven biển” - đây là thông tin từ Hội thảo do Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Trường Đại học Cần Thơ và tổ chức IUCN tổ chức, ngày 27-5. Cụ thể tham gia dự án “Phương pháp tiếp cận quy hoạch tổng hợp nhằm thực hiện kế hoạch chiến lược về công ước đa dạng sinh học và tăng cường sức chống chịu của hệ sinh thái với BĐKH” là các nhà khoa học hàng đầu của ĐBSCL với sự điều phối của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ.  

Tại hội thảo, các nhà khoa học đã nêu lên những bất cập của hệ thống đê bao kiên cố vùng đầu nguồn lũ đã tác động mạnh đến các vùng hạ nguồn. Cụ thể là tình trạng ngập úng cục bộ liên tục xảy ra với mức độ gia tăng theo từng năm ở các đô thị hạ nguồn ĐBSCL. Việc hệ thống đê bao kiên cố đã khai thác sản xuất lúa một cách triệt để - có nơi 2 năm/7 vụ, dẫn đến cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. Các nhà khoa học cho rằng, có thể giảm bớt diện tích trồng lúa vụ 3 để từ đó tăng khả năng trữ lũ ở vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Trong đó cần chú trọng các chính sách hướng đến các giải pháp mềm cho vùng ven biển, tạo ra sự đa dạng sinh thái cho các hợp phần trong hệ sinh thái ven biển. “Khi thực hiện, dự án sẽ góp phần đem lại sự ổn định và phát triển bền vững trong vùng, góp phần ứng phó với BĐKH đang diễn ra hết sức phức tạp ở Việt Nam” - ông Nguyễn Phong Quang, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, cho biết.

 

Nguồn: baohaugiang.com.vn