Dùng kháng sinh trong chăn nuôi: Hại nhiều mặt
- Thứ bảy - 26/08/2017 20:20
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Cao gấp 6 lần châu Âu
Theo đánh giá của các chuyên gia, việc sử dụng rộng rãi kháng sinh trong chăn nuôi và NTTS ở Việt Nam làm gia tăng sự hiện diện của các vi khuẩn kháng thuốc. Bên cạnh đó, việc bán thuốc kháng sinh không theo đơn hay trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản mà không được giám sát về chuyên môn cho thấy thuốc kháng sinh đang được sử dụng một cách thiếu trách nhiệm.
Phó cục trưởng Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và PTNT) Nguyễn Thu Thủy cho biết, theo khảo sát mới đây của Cục đối với 208 trang trại chăn nuôi gia cầm ở Tiền Giang thấy, mức sử dụng kháng sinh rất cao. Lượng kháng sinh trên gia cầm ở đây cao gấp 6 lần so với mức ghi nhận được ở một số nước châu Âu. Trong đó, 84% kháng sinh được sử dụng với mục đích phòng bệnh.
Không chỉ vậy, việc sử dụng thức ăn chăn nuôi có trộn sẵn thuốc kháng sinh cũng chiếm tỷ lệ cao. Trong mỗi chu kỳ chăn nuôi, 72% số trang trại đều sử dụng ít nhất một loại kháng sinh để phòng bệnh và trị bệnh hoặc kích thích tăng trưởng.
Trong ngành chăn nuôi heo, kháng sinh cũng bị lạm dụng khi ghi nhận có 286,6mg hoạt chất kháng sinh/kg heo hơi.
Tác hại của việc lạm dụng kháng sinh Đối với môi trường nuôi trồng thủy sản: - Gây mất cân bằng hệ sinh thái trong môi trường nuôi. - Tạo dòng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh, gây nên hiện tượng nhờn thuốc, tôm bệnh ngày càng khó trị. Đối với người tiêu dùng: Ảnh hưởng đến sức khỏe, gây ngộ độc, suy tủy, suy gan, suy thận, nếu tích tụ lâu ngày có thể dẫn đến ung thư, đột biến gen Đối với xuất khẩu: Dư lượng kháng sinh cao khiến con tôm không đạt chất lượng, nhiều lô hàng bị trả về gây ảnh hưởng lớn tới nền nông nghiệp, thủy sản của Việt Nam. |
Theo Cục Thú y, các nghiên cứu gần đây về vi khuẩn kháng thuốc trên động vật và sản phẩm động vật cũng đã được thực hiện trên 202 chủng Campylobacter spp. phân lập từ 343 trang trại chăn nuôi heo và gia cầm ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), ghi nhận tỷ lệ kháng thuốc như sau: 100% kháng Erythromycin; 99% kháng Sulfamethoxazole – Trimethoprim; 92% kháng Nalidixic acid và Ofloxacin và 20,8% kháng Ciprofloxacin. Ngoài ra, trong số 895 chủng Escherichiacoli phân lập được từ 208 trang trại chăn nuôi gia cầm quy mô nhỏ ở ĐBSCL cũng cho thấy, tỷ lệ kháng Gentamicin là 20%, kháng Ciprofloxacin là 32,5%. Hiện tượng kháng thuốc Ciprofloxacin chắc chắn liên quan đến việc sử dụng Quinolone tại các trang trại chăn nuôi.
Cũng theo kết quả khảo sát, kháng kháng sinh của vi khuẩn Salmonella spp. được phân lập từ 318 mẫu thịt heo, gà từ các chợ bán lẻ miền Bắc cho thấy, vi khuẩn này kháng Tetracyline là 58,5%; Sulphonamides 58,1%; Streptomycin 47,3%; Ampicillin là 39,8%, Chloramphen-icol 37,3%; Trimethoprim 34,0% và Nalidixic acid 27,8%. Kết quả nghiên cứu kháng kháng sinh trên thực phẩm thủy sản cũng cho thấy có 18% chủng Escherichiacoli phân lập được từ 60 mẫu tôm từ một chợ ở TP.Nha Trang (Khánh Hòa) có enzyme ESBL, 55% chủng này kháng với nhiều loại thuốc.
Bà Thủy cho rằng, tình trạng dễ dàng mua thuốc kháng sinh mà không cần đơn thuốc của bác sĩ thú y đã làm tăng thêm gánh nặng, gây khó khăn trong công tác quản lý, dẫn tới tình trạng lạm dụng trong chăn nuôi.
Sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn là hướng đi tất yếu hiện nay. Bởi vậy, Bộ Nông nghiệp và PTNT tiếp tục chọn năm 2017 là “Năm cao điểm hành động vì ATTP trong lĩnh vực nông nghiệp”. Trong đó, đặt mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm sinh học và tồn dư hóa chất, kháng sinh trong sản xuất kinh doanh nông sản thực phẩm, đáp ứng yêu cầu về ATTP cho tiêu dùng trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu. Bộ Nông nghiệp và PTNT phấn đấu đến cuối năm 2017, tỷ lệ mẫu giám sát vi phạm quy định về tồn dư hóa chất, kháng sinh trong các loại sản phẩm thịt, thủy sản giảm 10% so với năm 2016.
Xuất khẩu gặp khó
Thời gian qua, một số lô hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục bị các thị trường cảnh báo về hàm lượng tồn dư kháng sinh, hóa chất cấm. Còn đối với chăn nuôi, sản phẩm thịt lợn, gia cầm xuất khẩu sang các nước vẫn còn khá hạn chế, một phần do chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu. Điều này đặt ra yêu cầu đối với ngành chăn nuôi và NTTS là phải nâng cao chất lượng sản phẩm, trong đó có việc quản lý chặt tình trạng sử dụng chất cấm, kháng sinh trong quá trình sản xuất.
TS. Thái Quốc Hiếu, Phó chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi - Thú y tỉnh Tiền Giang, nhấn mạnh, nạn sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi là mối lo nhất hiện nay, trực tiếp dẫn tới nhiều thiệt hại, cản trở sự phát triển của địa phương.
Mỗi tháng, các đối tác Nhật Bản, Singapore của Công ty rau quả Tiền Giang nhập khẩu khoảng 10 container trứng chim cút, tương đương trên 10 triệu quả. Nhưng thực tế thì không có tháng nào đủ số lượng để xuất khẩu, vì qua kiểm soát, nhiều vùng chăn nuôi vệ tinh sử dụng nhiều kháng sinh, trứng còn tồn dư kháng sinh thì không thể xuất khẩu.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệpvà PTNT Vũ Văn Tám cho rằng, với số lượng lớn thịt lợn và thịt gia cầm tiêu dùng trong nước hàng ngày, việc tồn dư kháng sinh có thể là rủi ro lớn đối với sức khỏe cộng đồng. Điều này cũng có thể gây ra những bệnh mới nổi lây truyền sang người hoặc những bệnh mới nổi lây truyền qua thực phẩm. Do đó, từ đầu năm 2018, Việt Nam sẽ dừng sử dụng các loại kháng sinh cho mục đích sinh trưởng trong chăn nuôi, NTTS và chỉ cho phép sử dụng trong sản xuất con giống. Đặc biệt, lộ trình đến năm 2020, Việt Nam sẽ dừng hẳn việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và NTTS.
Bộ cũng sẽ bàn bạc cụ thể về danh mục kháng sinh sử dụng cho động vật, danh mục kháng sinh sử dụng cho người, hạn chế sử dụng chung kháng sinh cho cả động vật và người. Hiện tại, theo Thông tư 06/2016/TT-BNNPTNT ngày 31/5/2016 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, danh mục kháng sinh được phép sử dụng trong thức ăn chăn nuôi từ 43 loại trước đây đã được cắt giảm chỉ còn 15 loại và cũng chỉ được phép sử dụng đến ngày 31/12/2017.
Cần siết chặt quản lý nguyên liệu kháng sinh nhập khẩu
Theo Cục Thú y, trong 5 tháng đầu năm 2017, đã có 35 doanh nghiệp (DN) đăng ký nhập khẩu (NK) nguyên liệu kháng sinh làm thuốc thú y. Trong đó, số DN nhập khẩu để kinh doanh có 17 công ty; số DN nhập khẩu để kinh doanh và SX có 2 công ty và 16 công ty nhập khẩu để SX thuốc. Cục đã cấp giấy phép NK cho 50 loại nguyên liệu kháng sinh làm thuốc thú y cho các DN với số lượng 2.500 tấn, giá trị 37,8 triệu USD (trong đó 90% nguyên liệu được NK từ Trung Quốc).
Để quản lý chặt việc tiêu thụ trong nước, Cục Thú y đã yêu cầu trong giấy phép NK, đơn vị đăng ký NK phải ghi rõ “nguyên liệu NK chỉ được dùng cho sản xuất thuốc thú y”, đồng thời yêu cầu đơn vị NK phải báo cáo việc sử dụng, kinh doanh, địa chỉ cơ sở mua nguyên liệu kháng sinh của lô hàng trước đó…
Ông Đàm Xuân Thành, Phó cục trưởng Cục Thú y, cho rằng, điều này đã tạo chuyển biến rất tích cực. Cụ thể, trong 5 tháng đầu năm 2017, qua thanh tra, kiểm tra giám sát việc sử dụng nguyên liệu kháng sinh NK trên toàn quốc, đã không còn phát hiện trường hợp nào kinh doanh, buôn bán, sử dụng nguyên liệu kháng sinh sai mục đích, sai đối tượng.
Đây cũng là cơ sở để lực lượng thanh tra có thể dễ dàng truy xuất được nguồn gốc đường đi cuối cùng của đối tượng khi phát hiện ra sai phạm. Mặc dù vậy, do chưa có chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi NK, buôn bán nguyên liệu kháng sinh sai mục đích, sai đối tượng nên từ năm 2016 đến nay, các trường hợp vi phạm chỉ bị áp dụng biện pháp tạm thời cấm NK.
Tuy nhiên, tại thông tư thi hành Luật Thú y đã có những chế tài xử lý hành chính rất mạnh tay đối với hành vi này, vì vậy, thời gian tới, Cục Thú y và các đơn vị liên quan cần khẩn trương xây dựng nghị định xử phạt hành chính theo Luật Thú y trên cơ sở phù hợp với Bộ luật Hình sự để sớm có cơ chế quản lý mạnh hơn.
Đầu tháng 8, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã khởi động Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý sử dụng kháng sinh (SDKS) và phòng chống kháng kháng sinh (KKS) trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản 2017-2020 với 5 mục tiêu: (1) Rà soát, sửa đổi và thi hành các quy định và chính sách liên quan đến KKS và SDKStrong chăn nuôi và NTTS; (2) Nâng cao nhận thức về SDKS và nguy cơ về sự hình thành KKS cho cán bộ kỹ thuật, người làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm, cho nông dân và người tiêu dùng; (3) Thực hiện các thực hành tốt trong khám chữa bệnh, thực hành tốt trong sản xuất thức ăn chăn nuôi, thực hành tốt trong chăn nuôi và NTTS; (4) Giám sát SDKS, kháng sinh tồn dư và KKS trong chăn nuôi và NTTS; (5) Tạo điều kiện cho các hoạt động hợp tác liên ngành về quản lý KKS. |
Vân Nhi/kinhtenongthon.com.vn