Hợp tác công – tư là chìa khóa để phát triển nông nghiệp bền vững
- Thứ ba - 11/09/2018 10:45
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ lực của phần lớn các quốc gia ASEAN, sản xuất nông lâm thuỷ sản trong khu vực không chỉ đảm bảo an ninh lương thực nội khối với dân số 650 triệu người mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu.
Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường làm việc với đại diện CropLife.
Thảo luận về việc thực hiện Sáng kiến “Tầm nhìn mới trong nông nghiệp” do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đưa ra năm 2009, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm vai trò rất quan trọng của nhiều quốc gia, do đó Tầm nhìn mới trong nông nghiệp là “trúng”.
Để cụ thể hóa tầm nhìn này, từ năm 2010 Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước và khối tư nhân thông qua các Nhóm công tác Đối tác công tư (PPP) ngành hàng trong Đối tác phát triển nông nghiệp bền vững Việt Nam (PSAV), hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam.
Đến nay, PSAV đang triển khai thành công 7 Nhóm công tác PPP ngành hàng: Cà phê; chè; rau quả; thủy sản; hồ tiêu và gia vị; lúa gạo và hóa chất nông nghiệp. “WEF đã giúp Việt Nam giới thiệu, tiến cử các tập đoàn lớn, các doanh nghiệp phối kết hợp giữa Chính phủ với người dân và doanh nhân.
Trên 7 nhóm ngành hàng, cho đến nay thực hiện qua gần 10 năm chúng tôi đánh giá bước đầu rất tốt ở chỗ: Thứ nhất, khai thác được tiềm lực về mặt tư bản; thứ hai tổ chức quản trị một cách chặt chẽ; thứ ba, nâng cao được thu nhập cho người dân, đặc biệt tạo ra chuỗi nông sản theo ý đồ chúng ta mong muốn là sạch, hiệu quả, phân phối lợi ích đều giữa người nông dân, doanh nghiệp và tổ chức thương mại toàn cầu” – Bộ trưởng khẳng định.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường dẫn chứng với hai mô hình hợp tác công – tư do Néstle và Unilever phối hợp thực hiện, Việt Nam đã xây dựng 2 nhóm ngành hàng cà phê và chè rất có hiệu quả. Đối với chuỗi ngành hàng cà phê do Néstle làm hạt nhân hỗ trợ, qua 7 năm làm đã hình thành được những vùng sản xuất nguyên liệu và người nông dân đã học được kỹ thuật canh tác làm sao để năng suất cao, làm sao cho môi trường tốt, làm sao cho hiệu quả cuối cùng cao nhất.
“Nhà đầu tư hạt nhân Nestle cùng các doanh nghiệp Việt Nam đang làm tốt chức năng hướng dẫn kỹ thuật, hướng dẫn quản trị, thu mua nông sản, tổ chức chế biến và phân phối chuỗi giá trị. Chính vì vậy, chúng tôi đánh giá đây là một trong những mô hình rất tốt và hướng tới sẽ mở” – Bộ trưởng nhấn mạnh.
Với cây chè, Bộ trưởng đánh giá Unilever cũng là một trong những thành tố hạt nhân phối kết hợp rất tốt cùng các doanh nghiệp Việt Nam. Như ở Tuyên Quang, mô hình hợp tác công – tư đã khẳng định hiệu quả kinh tế rõ nét, trụ cột thứ hai là môi trường, hầu hết quản trị về thuốc bảo vệ thực vật ở những khu vực này rất tốt, giảm đáng kể đến việc dùng hóa chất nhưng lại tăng được năng suất, hiệu quả. “Hiện nay, riêng mô hình đó, nông dân xin vào hợp tác, xin vào mô hình rất là đông”- Bộ trưởng chia sẻ.
Năm 2009, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đưa ra Sáng kiến “Tầm nhìn mới trong nông nghiệp”, trong đó đề ra mục tiêu nâng cao sản lượng nông nghiệp lên 20%, giảm lượng phát thải carbon 20% và giảm tỷ lệ đói nghèo xuống 20% sau mỗi thập kỷ cho đến năm 2050. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên cam kết thực hiện Tầm nhìn mới trong nông nghiệp của WEF. Tầm nhìn có sự tham gia thực hiện của 350 quốc gia và tổ chức thành viên của WEF trên toàn thế giới và thiết lập đối ngoại cao cấp với G7 và G20.
CropLife kiến nghị với Chính phủ Việt Nam cần có khung hành lang pháp lý về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, dân số thế giới hiện nay đã đến 7,5 tỷ người, trong khi đó nhu cầu cho tiêu dùng thực phẩm của bình quân thế giới là 15%. Đây là một trong những cơ hội để nông nghiệp có thể phát triển. Bộ trưởng đặt vấn đề: “Chúng ta phải khẳng định phương thức đầu tư công – tư là một trong phương thức cốt lõi để thực hiện tầm nhìn phát triển nông nghiệp bền vững, thực hiện được mục tiêu từng quốc gia về nông nghiệp. Do đó, chúng ta phải rà soát, đánh giá lại qua 7 nhóm ngành hàng PPP làm với WEF, các tập đoàn làm - có nhiều nhóm tốt, kết quả rất cao, nhưng có những nhóm chưa làm. Do vậy, phải tổng kết lại để nhân thành những điển hình”.
Bộ trưởng chia sẻ với các đại biểu tham dự Diễn đàn, năm nay Việt Nam có thể xuất khẩu được 40 tỷ USD về nông sản. “Nếu làm tốt từ vùng nguyên liệu đến chế biến, tổ chức thị trường và sâu chuỗi lại từ người nông dân với doanh nghiệp, với tập đoàn thì giá trị còn tăng nhiều. Rõ ràng, muốn thực hiện được điều đó thì không có con đường nào khác là hợp tác công – tư. Đây sẽ là một trong những chìa khóa, giải pháp căn cơ nhất thực hiện tầm nhìn của WEF về nông nghiệp” – Bộ trưởng nói.
CropLife mong muốn có hành lang pháp lý về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật Trong khuôn khổ Diễn đàn Tăng trưởng Châu Á, Bộ trưởng có 2 cuộc tiếp xúc và làm việc song phương với đại diện Croplife Việt Nam - thành viên của PSAV (đồng chủ trì Nhóm công tác PPP về Hóa chất nông nghiệp) và Tập đoàn Archer Daniels Midland Corporation (ADM) của Mỹ (chuyên về sản xuất thực phẩm, chế biến sản xuất hạt chứa dầu, sản xuất và chế biến sản phẩm từ ngô, sản xuất thức ăn gia súc và cung cấp dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao) để bày tỏ mong muốn hợp tác đầu tư – thương mại trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi. Trao đổi với Bộ trưởng, đại diện CropLife Việt Nam và Tập đoàn Bayer chia sẻ sự ủng hộ đối với tầm nhìn mà Bộ Nông nghiệp và PTNT đang hướng tới và mong muốn Chính phủ thúc đẩy đổi mới ngành nông nghiệp bảo đảm an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp bền vững. Một trong những đề nghị mà phía Croplife Việt Nam đưa ra là mong muốn Bộ xây dựng hành lang pháp lý dựa trên cơ sở khoa học, trong đó cân nhắc phương án tổn hại đến môi trường và sức khỏe con người, tránh lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật. Về vấn đề này, Bộ trưởng nhấn mạnh: “Phương châm để hai bên phát triển bền vững là thực hiện Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pests Management, viết tắt theo tiếng Anh là IPM). Làm như vậy, tất cả mọi người đều thắng”. |