Khơi nguồn tín dụng "tam nông"

Khơi nguồn tín dụng "tam nông"
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nửa đầu năm 2014, tín dụng tăng 3,52% so với cuối năm 2013. Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực vào các lĩnh vực ưu tiên: tín dụng xuất khẩu tăng 10%, công nghiệp hỗ trợ tăng 5,8%, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 13%. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là, tín dụng nông nghiệp, nông thôn chỉ tăng ở mức thấp: khoảng 2,56% so với cuối năm 2013...

Dấu hiệu cảnh báo

Tín dụng dành cho khu vực "tam nông" sụt giảm là xu hướng chung của tín dụng cả nền kinh tế sáu tháng đầu năm 2014, bởi những lý do được cho là do tính quy luật tín dụng thường tăng thấp trong những tháng đầu năm, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn còn yếu, tình trạng nợ đọng ngân sách... Tuy nhiên, tín dụng cho khu vực "tam nông" sụt giảm trong nửa đầu năm 2014 cũng là một dấu hiệu bất thường có tính cảnh báo. Nhìn lại từ thời điểm triển khai Nghị định 41/2010/NÐ-CP ngày 12-4-2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trong bốn năm (2010 - 2013) đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Cụ thể, tính đến ngày 31-12-2013, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín dụng (chưa bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội) đã đạt gần 672 nghìn tỷ đồng, tăng 19,67% so với cuối năm 2012. Ðây là mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng là 12,51% và chiếm tỷ trọng 19,32% dư nợ nền kinh tế.

Thế nhưng những ngày vàng son như vậy đã qua. Từ đầu năm đến nay, tốc độ tăng trưởng tín dụng nông nghiệp chỉ đạt 2,56% và trong ngắn hạn, ít nhất là trong nửa năm còn lại, tăng trưởng tín dụng cho khu vực "tam nông" có thể vẫn tiếp tục gặp khó, nhất là trong bối cảnh một số chương trình tín dụng lớn được NHNN đưa ra thời gian gần đây đang là dấu hỏi. Trước hết, 12 nghìn tỷ đồng mà NHNN "hứa" dành cho tái canh cây cà-phê thì phải chờ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các địa phương xác định quy hoạch và phải được người vay hồ hởi đón nhận thì ngân hàng mới có thể giải ngân. Chương trình thứ hai, 10 nghìn tỷ đồng cho vay ngư dân bám biển nhưng không dễ triển khai vì do các ngân hàng tự quyết định cho vay bằng vốn của mình. Chương trình thứ ba là cho vay theo chuỗi liên kết và cánh đồng mẫu lớn không giới hạn số lượng nhưng cũng đang thí điểm và phải chờ đợi sau hai năm, nếu thành công thì mới nhân rộng mô hình.

Rút ngắn khoảng cách giữa chính sách với thực tiễn

Từ thực tế này, muốn hay không cũng buộc phải nhìn lại những rào cản khiến tín dụng "tam nông" gặp khó trong suốt những năm qua để tìm biện pháp khắc phục. Trước hết, bên cạnh thành quả đạt được, điều dễ dàng nhận thấy là ngay cả một chính sách ưu việt như Nghị định 41 đến nay cũng đã bộc lộ một số hạn chế, gây khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện: sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương với ngành ngân hàng triển khai cho vay còn chậm và thiếu đồng bộ do ảnh hưởng của một số thủ tục hành chính. Hạn chế này, theo phân tích đang nằm ngay trong phương thức sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay gắn với "vòng kim cô" thu nhập thấp, nghèo nên thiếu vốn để phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, đầu tư vào máy móc công nghệ. Cũng vì nghèo nên thiếu tài sản có giá trị để thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng, phải vay vốn với lãi suất thực tế cao hơn nên khó thoát nghèo, khó có cơ hội nâng cao thu nhập và nông nghiệp Việt Nam vẫn dẫm chân tại chỗ, khó có thể tạo ra và thu hút các nguồn lực tài chính đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Ngoài ra, việc mở rộng, tăng trưởng tín dụng vào "tam nông" còn kém hiệu quả do trình độ sản xuất, năng lực tài chính, ứng dụng vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến nhu cầu, hiệu quả sử dụng vốn. Thống kê gần đây cho thấy, dân cư tập trung tại khu vực nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% dân số nhưng tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng chưa đạt đến 25%, cho thấy thị trường tín dụng nơi đây còn chưa được chú trọng đúng mức. Lý do chủ yếu là do khu vực này có mức sinh lời thấp, chi phí cao, nhiều yếu tố rủi ro khách quan như thiên tai, dịch bệnh... Hoạt động ngân hàng ở khu vực nông nghiệp, nông thôn chủ yếu là các dịch vụ truyền thống như cho vay và tiền gửi, các dịch vụ thanh toán ngân hàng hiện đại còn hạn chế, quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai.

Cũng không thể không nhắc những "rào chắn kỹ thuật" mà bản thân ngân hàng đặt ra đang thật sự gây khó cho người vay. Qua tìm hiểu thực tế tại một số địa phương cho thấy, sau nhiều lần định mức và thời gian vay cho nông nghiệp được điều chỉnh nâng lên (30 triệu đồng/ha/năm), nông dân phần nào tiếp cận dễ hơn với nguồn tín dụng. Tuy nhiên, dường như điều này chỉ mới đúng với cây lúa, những nông dân muốn chuyển đổi cây trồng, vật nuôi theo nhu cầu thị trường thì rất nhọc nhằn để tiếp cận nguồn vốn này. Riêng với lĩnh vực đánh bắt xa bờ, đòi hỏi nguồn vốn lớn, tình hình càng khó khăn hơn bởi trị giá của mỗi tàu cá lên đến năm đến bảy tỷ đồng/chiếc, có đến 60-70% ngư dân có nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ giải quyết cho các đối tượng khách hàng quen thuộc và cũng chỉ được xét giải quyết cho vay tối đa 25% trị giá tài sản thế chấp, số còn lại buộc phải vay "nóng" bên ngoài với lãi suất cao.

Trong bối cảnh như vậy, giải pháp trước mắt để giải quyết vấn đề vốn cho khu vực "tam nông" chính là tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho khu vực này thông qua xác lập cơ chế thực thi đơn giản và rõ ràng để rút ngắn khoảng cách giữa chính sách với thực tiễn. Cần xây dựng ngay một cơ chế bảo lãnh tín dụng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn thay vì phải cầm cố tài sản, giấy sử dụng đất - tài sản gần như duy nhất đáng giá của các hộ nông dân hiện nay. Thời gian qua, một số ngân hàng đã có chính sách ưu đãi lãi suất cho vay và một số điều kiện vay vốn, cũng như đơn giản hóa quy trình cấp tín dụng cho các đối tượng ở khu vực nông nghiệp, nông thôn nhất là trong cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với hộ nông dân theo Nghị định số 41/2010/NÐ-CP.

Một vấn đề không kém phần quan trọng khác là muốn khơi thông hơn nữa dòng tín dụng vào khu vực "tam nông" cần phối hợp nguồn tín dụng ngân hàng với các nguồn lực tài chính khác. Ðến đây, không thể không nhắc đến một nguồn lực tài chính cũng rất quan trọng là các gói tín dụng ưu đãi mà các tổ chức tài chính quốc tế dành cho khu vực tam nông. Ví như, gần đây, nhiều nông dân tiếp cận gói tín dụng với lãi suất ưu đãi thuộc dự án Tài chính Nông thôn III do Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam vay để phát triển nông thôn gắn với xóa đói, giảm nghèo. Nằm trong chuỗi dự án Tài chính Nông thôn được triển khai theo ba giai đoạn, kéo dài 18 năm (từ năm 1996 đến nay), dự án Tài chính Nông

thôn III được triển khai trong 5 năm, từ 2009 đến ngày 31-12-2013 theo đúng tiến độ cam kết, với khoản vay hơn 200 triệu USD. Nếu tranh thủ được các dự án tài chính lớn và quan trọng này, chúng ta sẽ có thêm điều kiện quan trọng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống của các hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ tại các vùng nông thôn trên cả nước.

Nông dân xã Bắc Phong làm thủ tục vay vốn tại Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện Thuận Bắc (Ninh Thuận). Ảnh: VĂN MIÊN

TÂM THỜI
nguồn: nhandan.com.vn