Sự gắn kết cần thiết

Sự gắn kết cần thiết
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có tổng diện tích khoảng 3,96 triệu ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm khoảng 3,21 triệu ha. Phần lớn đất đai của ĐBSCL là nông nghiệp, trong đó đất trồng lúa 1,85 triệu ha, trồng cây ăn trái khoảng 0,22 triệu ha, đất dành cho nuôi trồng thủy sản khoảng 0,63 ha.

Những năm qua, các nhà khoa học trong vùng đã nỗ lực nghiên cứu ra nhiều giống lúa, giống cấy ăn trái, các giống thủy sản nhằm năng cao năng suất, chất lượng. Bên cạnh những thành công vẫn còn những thách thức, trong đó nguyên nhân của những mặt còn tồn tại trong nghiên cứu khoa học, đó là thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà khoa học với chính quyền địa phương, với doanh nghiệp và người nông dân. Đâu là lời giải cho bài toán này? Câu hỏi đã được các nhà khoa học đặt ra trong Hội thảo “Khoa học và công nghệ với sự phát triển bền vững của vùng ĐBSCL.

Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Trung ương đảng, Bí thư Thành ủy Cần Thơ đi thăm và kiểm tra cánh đồng mẫu lớn ở huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ

Cây lúa là thế mạnh của ĐBSCL, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu gạo cho đất nước. Những năm qua, các nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến nghiên cứu phát triển các giống lúa cho năng suất, chất lượng cao, ngắn ngày, chống sâu bệnh, quy trình canh tác hợp lý, thay thế giống lúa một vụ năng suất thấp… đã giúp toàn vùng ĐBSCL nâng sản lượng từ 4,2 triệu tấn năm 1976 lên đến hơn 21 triệu tấn năm 2010. Tuy nhiên, người nông dân sản xuất lúa vẫn còn nghèo, các nhà nghiên cứu khoa học vẫn còn phải nghiên cứu đơn lẻ, các doanh nghiệp chỉ hưởng thụ thành quả mà chưa có đơn đặt hàng cho các nhà khoa học… Trao đổi với chúng tôi về các khó khăn về nghiên cứu, sản xuất, tiêu thụ lúa gạo ở ĐBSCL, TS Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL cho biết: Hiện nay có rất nhiều giống lúa mới nhưng vẫn còn thiếu các giống lúa năng suất và chất lượng cao, thích nghi với đặc thù từng tiểu vùng sinh thái ĐBSCL, chống chịu được sâu bệnh và điều kiện khó khăn do biến đổi khí hậu toàn cầu. Thiếu nguồn cung cấp giống tốt, đến nay mới chỉ có trên 30% giống lúa cấp xác nhận được sử dụng trong sản xuất lúa; nông dân sản xuất lúa gặp nhiều rủi ro do sâu bệnh, thời tiết, lũ lụt và đặc biệt là thị trường tiêu thụ; trình độ sản xuất, kỹ năng và kỹ thuật chưa đồng đều của các hộ nông dân dẫn đến năng suất lúa không cao…

Muốn nâng cao toàn bộ giá trị của cây lúa, cần nhất là liên kết giữa các nhà khoa học với các trường, các viện nghiên cứu để thích ứng với biến đổi khí hậu, nhu cầu an ninh lương thực, ô nhiễm môi trường… Những việc này không thể một đơn vị khoa học làm được mà cần có sự phối hợp, liên kết hoạt động giữa các đơn vị nghiên cứu khoa học công nghệ trong và ngoài nước. Muốn liên kết có hiệu quả cần phải phát triển các dạng kinh tế hợp tác để thuận lợi cho đầu tư, sản xuất hàng hóa đủ lớn, dễ dàng tiếp cận thị trường và đảm bảo đầu ra, trong đó liên kết “ bốn nhà” là khâu mấu chốt được quan tâm hàng đầu.

Không chỉ cần liên kết trong sản xuất lúa mà trong trồng các loại cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản cũng cần sự liên kết chặt chẽ trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào sản xuất. Trao đổi với chúng tôi về sự cần thiết của sự liên kết này, ông Nguyễn Văn Hảo, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 2 cho rằng: Trong phát triển nuôi trồng thủy sản cần có sự liên kết chặt chẽ giữa “ bốn nhà”, đó là nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và doanh nghiệp. Tuy nhiên, thời gian qua vẫn còn những hạn chế và vướng mắc cơ bản trong mối liên kết này. Đó là sự hạn chế giữa nhà khoa học và nhà nước khi trong nghiên cứu thiếu kinh phí do một số trung tâm nghiên cứu phải tự chủ về tài chính; hạn chế giữa nhà khoa học và doanh nghiệp khi các doanh nghiệp thường mua sản phẩm hoặc áp dụng công nghệ có sẵn mà ít có đầu tư dài hạn, cùng đồng hành cùng các nhà khoa học…

Cùng nhận định với quan điểm cần phải có liên kết trong nghiên cứu khoa học, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Châu, Viện Cây ăn quả Miền Nam phân tích: Việt Nam có nhiều loại cây ăn quả, rất phong phú về chủng loại. Tuy nhiên, cây trái của nông dân làm ra chủ yếu phục vụ cho thị trường nội địa (chiếm 85 đến 90%), xuất khẩu chỉ chiếm từ 10 đến 15%. Nếu muốn xuất khẩu được nhiều sang thị trường các nước chúng ta cần có bước đột phá trong nghiên cứu khoa học nhằm nâng cáo chất lượng các loại trái cây. Người nông dân cần liên kết với nhau trong sản xuất; các doanh nghiệp cũng nên chung tay với nông dân để nâng cáo giá trị cho cây trái Việt Nam.
Đặc biệt, muốn phát triển các loại trái cây ngon, các nhà khoa học cần nghiên cứu nhằm tăng độ ngọt cho các loại trái cây như thanh long, ổi; tăng độ dày của vỏ xoài, hạn chế hạt ở bưởi, nhãn… và tăng nhiều loại giống để có thể thích ứng với biến đổi khí hậu.

Hiện nay, có nhiều mô hình liên kết “bốn nhà” ở nhiều địa phương bước đầu đã mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên trong phát triển khoa học và công nghệ vẫn còn những trở ngại. Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Sánh, Giám đốc Viện nghiên cứu Phát triển ĐBSCL- Trường Đại học Cần Thơ, đó là nguồn lực (cơ sở vật chất, con người và kinh phí) rất khó khăn, những lại thiếu liên kết nhau giữa Viện và Trường để phát huy thế mạnh từng đơn vị nhằm giải quyết các nghiên cứu liên quan đến từng lĩnh vực kỹ thuật, tự nhiên và kinh tế- xã hội, và đôi khi chồng chéo nhau rất lớn giữa các đơn vị nghiên cứu. Nhiều nhà nghiên cứu còn thiếu sự gắn kết với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Do đó, kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế còn hạn chế.

Một số đề tài tập trung đầu tư cao, nhưng khả năng quản lý, điều hành của người chủ trì hạn chế. Vấn đề chấp hành quy chế quản lý đề tài, dự án nơi này, nơi kia còn thiếu nghiêm túc. Sở hữu trí tuệ và bản quyền của nhà khoa học không được tôn trọng đúng mức…
Rõ ràng sự liên kết trong nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ cho phát triển kinh tế ĐBSCL thời gian qua đã bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, vẫn thiếu đi sự gắn kết chặt chẽ, nếu giải quyết được vấn đề này thì khoa học và công nghệ ở vùng sẽ góp phần rất lớn trong đưa vùng kinh tế trọng điểm này vươn lên, góp phần phát triển kinh tế bền vững.
 
Bài, ảnh: Nguyễn Bá
Theo qdnd.vn