Tăng cường thực hiện các biện pháp kỹ thuật hạn chế ảnh hưởng của nắng nóng đến sản xuất nuôi trông thủy sản

Tăng cường thực hiện các biện pháp kỹ thuật hạn chế ảnh hưởng của nắng nóng đến sản xuất nuôi trông thủy sản
Theo Dự báo thời tiết năm 2019, Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ văn quốc gia cho biết, nắng nóng có khả năng xuất hiện sớm hơn trung bình tại các khu vực phía Tây Bắc Bộ và khu vực Trung Bộ. Các đợt nắng nóng có khả năng tập trung từ tháng 4 - 5 ở phía Tây Bắc Bộ, từ tháng 5 - 6 ở phía Đông Bắc Bộ, từ tháng 5-8 tại khu vực Bắc và Trung Trung Bộ. Nhiệt độ trung bình từ tháng 4 đến 8 năm 2019 trên phạm vi toàn quốc phổ biến ở mức cao hơn TBNN cùng thời kỳ khoảng 0,5 - 1 độ C.

Để chủ động phòng chống nắng, nóng, dịch bệnh cho các đối tượng thủy sản nuôi, ngày 22/4/2019 Chi cục thủy sản Hà Tĩnh đã ban hành công văn số 114/TS-NTTS về việc tăng cường các biện pháp kỹ thuật hạn chế ảnh hưởng của nắng nóng đến sản xuất nuôi trông thủy sản. Theo đó, Chi cục thủy sản khuyến cáo người nuôi trồng thủy sản tăng cường áp dụng các biện pháp phòng chống nắng, nóng, dịch bệnh trên các đối tượng thủy sản nuôi như sau:

1. Đối với ao đầm/lồng bè nuôi trồng thủy sản

- Che phủ một phần diện tích nuôi để làm chỗ trú ẩn, tránh nắng nóng cho cá (bèo tây, lưới đen,...) khi nắng nóng kéo dài. Đối với nuôi ao, chủ động nâng và duy trì mức nước ở mức cao tối thiểu 1,2-1,5 m trở lên.

- Sử dụng các thiết bị làm giàu ô xy như máy quạt nước, máy sục khí, máy phun, máy bơm… đặc biệt là vào ban đêm từ 22h đêm đến 4h sáng để tăng ô xy hòa tan và đảo nước nhằm tăng cường hàm lượng oxy hoà tan, đặc biệt là tầng đáy, tạo điều kiện cho vi sinh vật hiếu khí phát triển sẽ làm giảm thiểu lượng khí độc trong ao.

- Vệ sinh môi trường nuôi: Đối với nuôi ao, định kỳ 7 - 10 ngày dùng vôi bột hòa nước té khắp mặt ao với lượng 2 - 3kg/100m3 tùy theo pH nước để khử trùng nước ao, tiêu diệt mầm bệnh, định kỳ dùng chế phẩm sinh học để xử lý môi trường. Đối với ao nuôi cá nước ngọt tuyệt đối không đưa phân chuồng trực tiếp xuống ao, nếu sử dụng phân hữu cơ trong ao nuôi phải được ủ hoai, ủ với vôi lượng 2 - 3% vôi cho 100kg phân, ủ phân một tháng sau đó bón xuống ao để tránh mầm bệnh. Đối với lồng nuôi cá, hàng tuần phải vệ sinh trong và ngoài lồng để cho nước lưu thông. Nên sử dụng các loại chế phẩm sinh học làm sạch nước để cải thiện môi trường nuôi, nhưng phải tìm hiểu rõ nguồn gốc, tác dụng và cách sử dụng. Thay tối thiểu 30% lượng nước trong ao...

- Chủ động giảm mật độ nuôi phù hợp với điều kiện môi trường nuôi và khả năng quản lý chăm sóc.

- Quản lý tốt môi trường ao nuôi, định kỳ thay nước và sử dụng chế phẩm sinh học,  thường xuyên kiểm tra các thông số môi trường, đảm bảo các điều kiện môi trường nằm trong giới hạn thích hợp cho thủy sản nuôi như: nhiệt độ nước từ 26 - 28oC; Độ trong 30 - 40 cm; pH 6,5 - 8 (đối với ao nước ngọt), 7,5-8,5 (đối với ao mặn lợ); oxy hoà tan > 3 mg/lít; độ kiềm 80 - 120 mg/l,...

- Theo dõi tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống để có cơ sở đánh giá đúng số lượng tôm, cá trong ao/lồng để có chế độ cho ăn hợp lý: vào những ngày nắng nóng khi nhiệt độ thay đổi vượt giới hạn thích hợp (trên 320C đối với tôm và trên 350C đối với một số loài cá) cần chủ động giảm lượng thức ăn xuống còn 60 -70% so với bình thường. Tăng cường cho các đối tượng thủy sản nuôi ăn các loại thức ăn có chất lượng, bổ sung Vitamin C, khoáng chất, men tiêu hóa, tinh dầu tỏi... vào thức ăn để tăng sức đề kháng và phòng bệnh; Cho động vật thủy sản nuôi ăn vào thời điểm mát mẻ trong ngày;

- Hạn chế đánh bắt, san thưa, vận chuyển, thả giống vào thời điểm nắng nóng trong ngày.

- Khi thủy sản nuôi đạt cỡ thu hoạch cần chủ động thu tỉa để giảm mật độ nuôi hoặc thu toàn bộ vào thời điểm thích hợp. Đối với nuôi lồng/bè trong trường hợp bất lợi, cần có biện pháp di chuyển lồng đến nơi thích hợp.

- Khi nhiệt độ tăng cao cơ thể động vật thủy sản chưa kịp phản ứng thích nghi rất dễ bị stress và phát sinh bệnh. Nắng nóng trong thời gian dài làm các loại tảo phát triển mạnh làm giảm lượng ôxy và tăng lượng khí độc trong nước (NH3, H2S, CO2 …) do quá trình phân hủy các chất hữu cơ ở đáy diễn ra mạnh; đồng thời là điều kiện cho các loại vi khuẩn, vi rút gây bệnh cho động vật thủy sản phát triển. Vì vậy cần áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Thường xuyên kiểm tra ao, lồng/bè nuôi, phát hiện sớm những dấu hiệu bất thường để có biện pháp xử lý kịp thời.

2. Đối với các vùng nuôi ngao

- Duy trì mật độ nuôi phù hợp. Đối với ngao chưa đạt cỡ thu hoạch cần kiểm tra mật độ để có kế hoạch chủ động san thưa, đảm bảo mật độ nuôi từ 80-120 con/m2 đối với cỡ giống nuôi từ 400 - 600 con/kg; dưới 250 con/m2 đối với cỡ giống nuôi từ 500 - 800 con/kg, 250 - 350 con/m2 đối với cỡ giống nuôi từ 800-2000 con/kg. Người nuôi không nên thả giống ngao vào thời điểm thời tiết không thuận lợi; không nuôi ngao ở những vùng nước nông có thời gian phơi bãi dài từ 6 - 8h trở lên. Đối với ngao đạt cỡ thu hoạch (50-70 con/kg) cần khẩn trương thu hoạch tránh thiệt hại xảy ra.

- San phẳng mặt bãi nuôi, khai thông các vùng nước đọng lại ở các bãi nuôi ngao để tránh hiện tượng đọng nước cục bộ, giảm thiểu ảnh hưởng của nhiệt độ cao trong ngày làm ngao yếu và chết. Thường xuyên vệ sinh bãi nuôi, gia cố vệ sinh lưới vây tạo sự thông thoáng cho nước thủy triều lên xuống và cung chung tay bảo vệ môi trường vùng nuôi như: thu gom ngao chết trên bãi và xử lý đúng quy định tránh lây nhiễm bệnh, ô nhiễm môi trường chung. Thường xuyên quan sát bãi nuôi, khi có hiện tượng bất thường hoặc ngao bị chết, người nuôi cần có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời và thông báo ngay cho các cơ quan chức năng. Không đem ngao sống còn lại khu vực nuôi có hiện tượng chết tiếp tục thả nuôi ở bãi khác nhằm tránh lây lan dịch bệnh giữa các vùng nuôi./.

 
Theo Sỹ Công/sonongnghiep.hatinh.gov.vn