Giảm tổn thất sau thu hoạch: Nông dân và ngân hàng chưa gặp nhau

Giảm tổn thất sau thu hoạch: Nông dân và ngân hàng chưa gặp nhau
Là lĩnh vực được đặc biệt quan tâm bởi có đến 1 nghị quyết và 3 quyết định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ được ban hành để thúc đẩy phát triển, tuy nhiên, giảm tổn thất sau thu hoạch vẫn là vấn đề làm đau đầu ngành nông nghiệp. Chính sách ngày càng được thay đổi, bổ sung theo hướng cởi mở nhưng vẫn có rất ít nông dân được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để mua sắm máy móc, thiết bị. Rõ ràng, nông dân và ngân hàng chưa có tiếng nói chung.

Tiết kiệm 6.000 tỷ đồng cho nông dân trồng lúa

Khu vực ĐBSCL hiện có 10.000 máy gặt đập liên hợp, với 76% diện tích lúa được thu hoạch bằng máy.

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 48/NQ-CP ngày 23/9/2009 về cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông, thủy sản, Quyết định 63/2010/QĐ-TTg, Quyết định 65/2011/QĐ-TTg cũng ra đời nhằm cụ thể hóa các chính sách, cơ chế hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp mua máy móc, thiết bị.

Tuy nhiên, với điều kiện máy móc, thiết bị được hỗ trợ phải có tỷ lệ 60% chế tạo trong nước đã không đáp ứng được nhu cầu sản xuất nên ngày 14/11/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 68/QĐ-TTg, thay thế các quyết định 63, 65 với phạm vi hỗ trợ rộng hơn và đặc biệt là không bị ràng buộc bởi điều kiện tỷ lệ nội địa hóa 60% đối với máy móc phục vụ nông nghiệp.

Với những chính sách được ban hành, có thể thấy, giảm tổn thất sau thu hoạch rất được quan tâm và là nhiệm vụ cấp thiết để nâng cao giá trị thu nhập.

Trên thực tế, kể từ khi có Quyết định 63, số lượng máy, thiết bị trong sản xuất nông nghiệp đã tăng đáng kể. Theo tổng hợp số liệu điều tra cơ giới hóa nông nghiệp, năm 2014, số lượng máy kéo đã tăng 12,6% so với năm 2011, động cơ các loại tăng 18%, máy sấy tăng 6,4%, máy phun thuốc bảo vệ thực vật tăng 22,6% và đặc biệt là máy gặt lúa liên hợp tăng tới 92%.

Tỷ lệ khâu làm đất trong gieo trồng lúa khá cao, đạt tới 92%, trong đó cao nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đạt 98%; thấp nhất là trung du miền núi phía Bắc, 45%. Trong khâu gieo trồng, 30% diện tích lúa đã được gieo bằng công cụ sạ hàng và máy cấy; tỷ lệ này với mía là 30% và cao su là 70%.

ĐBSCL là khu vực có sự chuyển biến mạnh mẽ nhất trong việc áp dụng cơ giới hóa vào thu hoạch, bảo quản lúa với tỷ lệ diện tích lúa thu hoạch bằng máy đạt 76%, cá biệt có một số tỉnh đạt khá cao như Long An, An Giang đạt 98%; Vĩnh Long 97%; Kiên Giang 95%... Đến nay, toàn vùng đã có trên 10.000 máy gặt đập liên hợp, phần lớn có xuất xứ từ hãng Kobuta (Nhật Bản), chiếm trên 80%, còn lại là do các doanh nghiệp trong nước chế tạo. Năng lực sấy lúa của khu vực này cũng đạt khoảng 46%, tổng công suất của hệ thống kho chứa lúa gạo cũng đạt khoảng 6,7 triệu tấn, hiện đang xây dựng 600.000 tấn.

Theo ông An Văn Khanh, Phó cục trưởng Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và PTNT), chỉ tính riêng với lĩnh vực lúa gạo, nhờ áp dụng công nghệ sau thu hoạch (sử dụng máy gặt đập liên hợp, công nghệ chế biến gạo tiên tiến) nên tổn thất sau thu hoạch đã giảm từ 11 - 13% trước đây xuống còn 10% hiện nay. “Với sản lượng 43 triệu tấn lúa/năm, chỉ cần giảm được 3% tổn thất (tương đương khoảng 1,2 triệu tấn lúa), riêng khu vực ĐBSCL đã tiết kiệm được khoảng 6.000 tỷ đồng”, ông Khanh nhấn mạnh.

Cái lý của ngân hàng

Cũng theo ông Khanh, hiệu quả của việc áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất đã được khẳng định nhưng cho đến nay mức tăng trưởng về cơ giới hóa chưa tương xứng với yêu cầu của sản xuất và giảm tổn thất sau thu hoạch. Việc cơ giới hóa mới tập trung vào cây lúa song chưa đồng bộ; các cây trồng khác và chăn nuôi, thủy sản chưa được quan tâm đúng mức; công nghệ  chế tạo máy trong nước kém cỏi.

Trong phần lớn báo cáo của các địa phương về việc thực hiện Quyết định 68 đều có chung nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ cơ giới hóa còn thấp, người dân chưa mặn mà tiếp cận vốn vay ngân hàng là do chưa hiểu hết những nội dung của chính sách, thủ tục vay vốn còn nhiêu khê, rườm rà, lãi suất cao. Lãi suất tín dụng của nhà nước khá cao (hiện là 9,6%/năm), trong khi mặt bằng lãi suất cho vay thương mại bình quân của các ngân hàng thương mại cũng chỉ từ 9 - 10%/năm.

Nhưng ngân hàng cũng có cái lý của mình khi đầu tư cho nông nghiệp vẫn được xem là gặp nhiều rủi ro và không mấy hiệu quả. Có lẽ vì vậy mà đến nay, Quyết định 68/QĐ-TTg vẫn chưa được các ngân hàng triển khai đồng bộ. Theo nội dung quyết định, nhà nước không giới hạn triển khai quyết định này cho bất cứ ngân hàng nào nhưng đến thời điểm này chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT (Agribank) là chấp nhận cho vay vốn. Thậm chí, ngay trong hệ thống Agribank cũng không có sự thống nhất. Nhiều địa phương (Thái Bình, Nam Định, Tây Ninh,…) vẫn chưa thể triển khai Quyết định 68 vì không được sự ủng hộ của ngân hàng.

Tính đến thời điểm 31/3/2015, doanh số cho vay từ khi triển khai chương trình là 2.903 tỷ đồng, dư nợ 2.097,5 tỷ đồng, tăng 13,5% so với thời điểm 31/12/2014. Số lượt khách hàng vay vốn theo chính sách này là 11.795 lượt người, số lượng khách hàng còn dư nợ 9.124 khách hàng. Theo ông Đoàn Xuân Hòa, Phó chủ tịch Hội Cơ khí nông nghiệp Việt Nam, mức độ giải ngân chưa tương xứng với mong muốn đầu tư của nông dân. “Mức dư nợ chưa tương xứng với hiệu quả do việc giảm tổn thất mang lại. Đặc biệt, chưa thấy trường hợp nợ xấu nào khi nông dân hay doanh nghiệp vay mua máy móc phục vụ sản xuất. Vì vậy, các ngân hàng cần xem xét nới rộng các cơ chế giải ngân”, ông Hòa nói.

Có một nghịch lý nữa là, việc quy định danh sách, chủng loại máy, thiết bị được chính sách hỗ trợ đã vô tình cản trở sự đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực này. Cụ thể như quy định máy sấy nông sản, thủy sản quy mô hộ nhỏ, liên hộ được hưởng hỗ trợ lãi suất, do vậy doanh nghiệp khi đầu tư các loại máy móc sẽ không được hưởng ưu đãi, điều này ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này.

Cần cơ chế linh hoạt

Đó là đề nghị của hầu hết các địa phương nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư mua máy móc, thiết bị giảm tổn thất sau thu hoạch. Ông Phạm Văn Quỳnh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT TP.Cần Thơ, cho rằng, mục tiêu của hai quyết định 63, 65 là vừa muốn cơ giới hóa, vừa muốn thúc đẩy ngành cơ khí trong nước phát triển, thoạt đầu nghe có vẻ phù hợp nhưng thực tế là đang trói chân nhau. Bởi ngành cơ khí trong nước phát triển rất èo uột. “Thực tế, ở ĐBSCL chỉ thấy sự tồn tại của máy Nhật, một số ít có xuất xứ từ Trung Quốc, còn máy sản xuất trong nước không biết ở phương nào”, ông Quỳnh nói.

Cũng theo ông Quỳnh, dù Quyết định 68 đã sửa đổi khá nhiều nhưng chưa triệt để, chưa xuất phát từ thực tiễn của nhiều địa phương. Ví dụ, ở ĐBSCL, nông dân rất chuộng các loại máy móc đã qua sử dụng của Nhật Bản vì có giá thành hợp lý nhưng chất lượng đảm bảo, nhưng những loại máy này không nằm trong danh mục được hỗ trợ. “Ở ĐBSCL nhu cầu phát triển lò sấy đang rất bức thiết nhưng nếu hỗ trợ theo quy mô nông hộ thì không phù hợp mà nên phát triển theo hướng tổ hợp dịch vụ”, ông Quỳnh đề xuất.

Đại diện tỉnh Nam Định nêu một thực tế, ở địa phương có rất ít nông dân tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ưu đãi để mua máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, có những doanh nghiệp mua thiết bị về lắp ráp thành dây chuyền hoàn chỉnh cũng không thể tiếp cận nguồn vốn. Tình trạng này cũng xảy ra ở Lâm Đồng và nhiều địa phương khác.

Từ thực tế này, ông Đoàn Xuân Hòa cho rằng, cần quy định linh hoạt hơn nữa trong danh mục các loại máy móc, ngân hàng cần tạo cơ chế linh hoạt, thông thoáng hơn khi xem xét thế chấp cho vay vốn. Theo đó, tài sản thế chấp có thể bao gồm máy móc hình thành từ nguồn vốn vay; gắn việc cho vay với các hình thức kinh tế hợp tác; có cớ chế để các doanh nghiệp FDI liên kết sản xuất, chuyển giao công nghệ chế tạo, nâng tỷ lệ nội địa hóa chế tạo máy nông nghiệp,… Ngoài ra, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố cần chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết hàng năm về trang bị máy móc phù hợp với năng lực sản xuất của địa phương, phối hợp với các tổ chức tín dụng lập kế hoạch cho vay vốn, tránh tình trạng “nhà nhà mua máy, người người mua máy”, gây mất cân đối, không phát huy hết hiệu quả, khó hoàn trả vốn.

Từ kiến nghị, đề xuất của các địa phương, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Cao Đức Phát yêu cầu ngành chức năng sửa đổi, bổ sung danh mục tất cả các loại máy móc đều được hưởng hỗ trợ theo Quyết định 68, con đường lâu dài là ưu tiên phát triển ngành cơ khí trong nước để giảm giá thành máy, nâng cao tỷ lệ áp dụng cơ giới hóa.

Kinh nghiệm của các nước có nền nông nghiệp hiện đại cho thấy, mức độ cơ giới hóa nông nghiệp là một trong những thước đo thể hiện năng lực hiện đại hóa sản xuất, hình thành sức cạnh tranh trong nền nông nghiệp hàng hóa. Việc thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp vừa mang tính tuần tự, vừa có tính chất “đón đầu”, đi thẳng vào các công nghệ hiện đại của chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp. Để tăng trưởng 1% GDP nông nghiệp là vô cùng khó khăn, trong khi tổn thất sau thu hoạch ở nước ta còn ở mức trầm trọng, vì vậy, cần có những giải pháp mạnh hơn nữa để khắc phục tình trạng này.

Anh Thơ
Theo: kinhtenongthon.com.vn