HÀ TĨNH ĐẨY MẠNH LIÊN KẾT SẢN XUẤT KINH DOANH NÔNG NGHIỆP GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI MỤC TIÊU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Anh minh hoạ

Anh minh hoạ

Quán triệt Nghị Quyết số 26- NQ/TW ngày 05/8/2008 của BCH trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nghị quyết Đại Hội đảng bộ tỉnh Khóa XVII đã chỉ rõ "Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ Khoa học - Công nghệ vào sản xuất, chế biến, bảo quản, nhằm nâng giá trị sản phẩm và gắn với thị trường tiêu thụ, nhất là những sản phẩm có lợi thế, sản phẩm sạch. Tạo sự liên kết có hiệu quả giữa "4 nhà" trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm .… Có cơ chế chính sách hỗ trợ nông dân về công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch và thị trường tiêu thụ sản phẩm".
 

Ảnh minh hoạ
Trên tinh thần đó, trong những năm qua UBND tỉnh Hà Tĩnh đã kiên trì chỉ đạo hoạt động liên kết trong sản xuất kinh doanh và đã đạt được một số kết quả bước đầu rất quan trọng, khẳng định tính đúng đắn của Nghị Quyết và sự chỉ đạo của UBND tỉnh. Việc liên kết trong sản xuất kinh doanh giữa hộ nông dân, HTX và Doanh nghiệp đã giúp các bên tham gia nâng cao hiệu quả phát huy lợi thế và khắc phục khó khăn của mình, nâng cao hiệu quả đầu tư, cụ thể:
- Đối với các hộ nông dân:
Được nhà nước đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh; được nhận những chính sách ưu đãi của nhà nước như đất đai, vốn, thuế, máy móc thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển thị trường, đào tạo nhân lực, giảm tổn thất sau thu hoạch …
Được các doanh nghiệp cho ứng trước vật tư, giống và bao tiêu sản phẩm đầu ra với giá hợp lý, giảm bớt được các khâu trung gian. Đảm bảo sự an toàn và ổn định trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Nhận được những thông tin kịp thời từ phía nhà doanh nghiệp về phản ứng của thị trường về nhu cầu tiêu dùng sản phẩm mà mình đang sản xuất. Trên cơ sở đó có thể điều chỉnh quy mô, chất lượng cũng như chủng loại nông sản.
 Khi liên kết với nhà doanh nghiệp và nhà khoa học, người nông dân có điều kiện để ứng dụng kịp thời các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất với năng suất, chất lượng tốt, tốn ít thời gian và giảm chi phí sản xuất; có điều kiện để có thêm việc làm và tăng thu nhập.
- Đối với các Doanh nghiệp, HTX
 Có điều kiện để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của các khu vực, vùng miền cho sản xuất kinh doanh, nhất là nguồn nhân lực dồi dào, đất đai, nguồn nước, mặt nước, vật liệu xây dựng, các nông sản đặc trưng cho mỗi vùng miền, v.v.
 Được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước về đào tạo lao động, thuế, tín dụng, đất đai, đầu tư hạ tầng, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển thị trường, hỗ trợ pháp lý v.v.
 Thu mua được sản phẩm đồng nhất với số lượng lớn, ổn định, đảm bảo chất lượng, tạo sự chủ động về nguồn nguyên liệu trong chế biến xuất khẩu.
 Tận dụng được thị trường nông thôn.
Với lợi ích thu được của các bên liên kết như vậy, nên chỉ sau 03 năm triển khai, từ những mô hình ban đầu rất khiêm tốn, đến nay hoạt động liên kết sản xuất kinh doanh nông nghiệp đã trở thành xu hướng có sức cuốn hút mạnh mẽ sự tham gia của các doanh nghiệp HTX và các hộ nông dân. Năm 2011 chỉ có 7 cơ sở liên kết sản xuất, đến 2012 tăng lên đến 363 cơ sở và đến 25/9/2013 là 402 cơ sở. Sự liên kết phát triển sản xuất không chỉ tăng về số lượng mà còn được mở rộng  về ngành nghề và quy mô.
Đối với ngành chăn nuôi:  đến 31/12/2013 đã có 117 cơ sở liên kết chăn nuôi lợn quy mô từ 250 - 2.500 con (tăng 63 cơ sở so với năm 2012); 02 cơ sở chăn nuôi gà liên kết với Công ty JaFa quy mô 10.000 con/ lứa; tại Sơn Lễ, Hương Sơn Công ty Sữa Việt Nam Vinamilk đang triển khai xây dựng trang trại chăn nuôi bò sữa 5.000 theo hình thức liên kết với các hộ dân.
Mặc dù số cơ sở liên kết chăn nuôi chưa nhiều nhưng hiệu quả của nó là rất lớn, đã góp phần làm tăng nhanh tổng sản phẩm chăn nuôi,  năm 2013 tỷ trọng chăn nuôi theo quy mô trang trại, gia trại và liên kết, tăng 33% so với năm 2012 và chiếm 35% tổng sản phẩm chăn nuôi. Theo đó hiệu quả đầu tư  cũng tăng rõ rệt. các cơ sở liên kết chăn nuôi lợn quy mô 300 con lãi từ 30 - 50 triệu đồng/năm; quy mô từ 500 con trở lên lãi từ 60-100 triệu đồng/năm.
Trong nuôi trồng thủy sản, các cơ sở nuôi trồng nhỏ lẻ cũng đang chuyển dần sang hình thức liên kết sản xuất theo tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp, năm 2011 có 71 cơ sở, đến 25/9/2013 đã lên đến 98 cơ sở nuôi trồng, góp phần tăng sản lượng nghành nuôi trông thủy sản, năm 2013 đạt 41.892 tấn, tăng 3,1% so với năm 2012.
Trong trồng trọt, hoạt động liên kết sản xuất cũng được đẩy mạnh, các hộ nông dân đã liên kết các hợp tác xã, các doanh nghiệp để tổ chức sản xuất lương thực, thực phẩm, tạo ra những cánh đồng mẫu lớn, với tổng diện tích tăng nhanh, năm 2012 là 2525ha, đến năm 2013 là 3869,6 ha, tạo điều kiện để đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, nâng cao thu nhập cho nông dân. Điển hình là các huyện Đức Thọ, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Lộc Hà.
Mặc dù hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp đã đưa lại hiệu quả cao trông thấy tuy nhiên vẫn còn những vướng mắc cần phải được tháo gỡ , đó là:
  Hiểu biết về pháp luật trong hoạt động kinh tế của người nông dân còn hạn chế và vẫn nặng tư tưởng sản xuất tự cung, tự cấp, chưa mạnh dạn liên kết với doanh nghiệp, HTX để sản xuất.
 Trình độ sản xuất của nông dân còn thấp, ruộng đất manh mún, nguồn vốn hạn chế nên chưa mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chưa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật sản xuất theo cam kết do đó khả năng cung cấp sản phẩm chưa ổn định, chất lượng sản phẩm còn hạn chế vì vậy khả năng cạnh tranh trên thị trường thấp, gây khó khăn cho Doanh nghiệp, HTX trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm của Hà Tĩnh còn ít và chưa mạnh.
Khả năng tổ chức sản xuất - kinh doanh và tiếp cận thị trường của người nông dân lẫn doanh nghiệp ở Hà Tĩnh còn hạn chế cộng với những biến động không thuận lợi trong thị trường tiêu thụ đã dẫn đến tình trạng  liên kết lỏng lẽo.
Hệ thống kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn nhìn chung còn yếu, sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên do đó khả năng  rủi ro cao; Nguồn lao động đông, đến 2013 lao động nông nghiệp chiếm 60.4% tổng số lao động xã hội nhưng tỷ lệ lao động được đào tạo chỉ mới chiếm tỷ lệ 41,5%, đó là cản trở lớn đối với việc chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ manh mún, tự cung, tự cấp lên sản xuất hàng hóa theo quy mô lớn.
Những trở ngại đó đã gây khó khăn cho việc thu hút đầu tư của các Doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn cũng như việc liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Để khắc phục những hạn chế nói trên, nâng cao hiệu quả liên kết sản xuất kinh doanh nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn, thực hiện thắng lợi mục tiệu xây dưng nông thôn mới mà Nghị Quyết Đại Hội đảng bộ tỉnh Khóa XVII đã đề ra trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, thực hiện tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân về các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng, nhà nước gắn với chương trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, biết được những cơ hội và thách thức đặt ra đối với người nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của sự liên kết trong sản xuất, kinh doanh và các chính sách khuyến khích liên kết sản xuất kinh doanh trong sản xuất nông nghiệp của nhà nước.
Thứ hai, xây dựng tính kiên trì trong quá trình liên kết tổ chức sản xuất kinh doanh triển khai thực hiện:  Sản xuất và tiêu thu sản phẩm nông nghiệp chịu tác động của nhiều yếu tố có khả năng gây ra rủi ro như thiên tai, giá cả, khả năng dự báo.v.v.. do đó quá trình thực hiện liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng có thể có những khó khăn, rủi ro cho mỗi bên. Vì vậy đòi hỏi các bên phải kiên trì quan hệ liên kết, khi xuất hiện những bất cập thì phải cùng nhau tìm cách để tháo gỡ, chia sẽ rủi ro để cho liên kết phát triển theo chiều hướng thuận lợi. Nhờ đứng vào liên kết, mà mỗi bên có thể tranh thủ được được thế mạnh của các bên khác, phát huy thế mạnh của mình để khắc phục yếu kém và hạn chế rủi ro.
- Xây dựng tính kiên trì trong tổ chức thực hiện còn phải hết sức chú ý đến việc nâng cao chất lượng hợp đồng, quy định rõ trách nhiệm mỗi bên trên cơ sở các quy định của pháp luật để gắn chặt trách nhiệm và tăng cường tính bền vững trong liên kết. Tính kiên trì trong liên kết phải được thể hiện trong việc luôn tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của mỗi bên trong liên kết, tránh trường hợp khi có sự biến động về giá cả thị trường thì bên nào cũng muốn bảo vệ lấy lợi ích riêng cho mình.
 Thứ ba, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý đối với từng hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Sản xuất nông nghiệp của Hà Tĩnh lâu nay chủ yếu là hộ sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, hiện nay đang từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa và chỉ mới có một số rất ít trở thành trang trại; các HTX nông nghiệp mặc dù đã chuyển đổi theo luật HTX nhưng vẫn còn hình thức. Do đó chưa có nhiều kiến thức quản lý sản xuất hàng hóa, vì vậy trong quá trình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nếu không thay đổi cách thức quản lý theo hướng linh hoạt chủ động bám sát yêu cầu của thực tiễn sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những yêu cầu của thị trường thì khó tránh khỏi những tổn thất trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Điều đó đòi hỏi chủ thể quản lý các trang trại, doanh nghiệp, hợp tác xã cũng như các hộ sản xuất kinh doanh phải từng bước đổi mới phương thức quản lý sao cho phù hợp với tình hình và yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa, phải làm cho thói quen quản lý theo kiểu gia đình, tùy tiện lâu nay bị dỡ bỏ và thay vào đó là một hình thức quản lý khoa học.
Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung.
Đây là giải pháp nhằm tạo ra yêu cầu của sự liên kết. Khi sản xuất nông nghiệp hàng hóa chưa phát triển, chủ yếu là tự cung tự cấp thì người sản xuất chưa quan tâm đến nâng cao quy mô, chất lượng sản phẩm và vấn đề tiêu thụ sản phẩm do đó mà sự liên kết với doanh nghiệp, HTX để sản xuất và tiêu thụ hầu như chưa đặt ra, kể cả khi Doanh nghiệp, HTX chủ động đặt vấn đề liên kết. Nhưng khi năng lực sản xuất của người sản xuất được nâng lên, sản xuất nông nghiệp trở thành sản xuất hàng hóa thì bắt buộc người sản xuất phải quan tâm đến năng suất, chất lượng, số lượng, giá thành và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để giải quyết được những vấn đề đó cần phải có vốn, có hạ tầng kỹ thuật, khoa học và công nghệ, trình độ quản lý, sự kết nối thị trường, môi trường pháp lý và sự bảo hộ của nhà nước...từ đó đòi hỏi nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước phải có sự liên kết để giải quyết.
Thứ năm, đa dạng hoá các hình thức liên kết.
 Đây là cách để phát huy tính đa dạng và linh hoạt trong liên kết, trong đó có hai hoặc nhiều chủ thể tham gia, như: Doanh nghiệp với hộ dân;  HTX với hộ dân;  Doanh nghiệp với  hợp tác xã;  Các hộ dân với nhau; Doanh nghiệp với nhau.
Các mô hình liên kết trên cần triển khai các bước đi, cách làm cho phù hợp, từ thấp đến cấp cao, trên cơ sở gắn được sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm trong từng địa bàn, vùng nguyên liệu. Thông qua đó, các yếu tố đầu vào của sản xuất (vốn, giống, vật tư, đất đai, lao động,...) và đầu ra của sản phẩm (mua bán nguyên liệu, dự trữ, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm sau chế biến,...) gắn với nhau một cách đồng bộ, thống nhất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trình độ phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đòi hỏi mô hình liên kết ngày càng phải hoàn thiện, vì vậy, quá trình hoàn thiện mô hình liên kết là quá trình chuyển từ các phương thức liên kết đơn giản, lỏng lẻo lên các phương thức liên kết phức tạp hơn, chặt chẽ hơn và ổn định hơn; từ việc trao đổi, mua bán thông thường trên thị trường, chuyển sang liên kết với nhau bằng các hợp đồng kinh tế và cao hơn là góp vốn cổ phần để cùng nhau chia sẻ một cách bình đẳng về lợi ích, rủi ro trong sản xuất - kinh doanh.
Thứ sáu, khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn.
Hà Tĩnh doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và khu vực nông thôn còn ít. Để khai thác được thế mạnh các vùng miền, tạo sự kết nối giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ, nâng cao thu nhập cho người sản xuất cần phải đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp; khuyến khích gắn kết giữa sản xuất nguyên liệu và nhà máy chế biến thông qua việc: tạo thuận lợi về hành lang pháp lý, cung ứng tín dụng, xây dựng các quỹ bảo hiểm rủi ro, quỹ hỗ trợ xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng hệ thống thông tin, dự báo thị trường; phát triển khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế...
Th.s Nguyễn Quỳnh Nga
Giảng viên khoa Xây dựng Đảng