Ngành Nông nghiệp với chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế
- Thứ ba - 28/04/2015 04:48
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tính tới thời điểm hiện tại, Việt Nam đã tham gia đàm phán, ký kết và đang triển khai thực hiện 8 Hiệp định thương mại tự do (FTA), gồm: Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), FTA ASEAN-Trung Quốc, FTA ASEAN - Hàn Quốc,... Bên cạnh đó, Việt Nam đang tiếp tục đàm phán 6 FTA mới, gồm: Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA Việt Nam - EU, FTA Việt Nam với 4 nền kinh tế tự do châu Âu (EFTA), FTA Việt Nam – Liên minh hải quan (VCU), FTA Việt Nam - Hàn Quốc, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực RCEP. Trong đó, Hiệp định TPP với sự tham gia của các đối tác hàng đầu thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU được xem là hai Hiệp định quan trọng bậc nhất đối với Việt Nam, có ý nghĩa lớn cả về mặt kinh tế và chính trị.
Đa dạng hóa các sản phẩm và thị trường
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi các Hiệp định mậu dịch tự do đã ký kết của ngành NN&PTNT, Việt Nam sẽ có được nhiều tác động tích cực. Trong đó, tạo điều kiện để tăng trưởng thương mại và đa dạng hóa thị trường, sản phẩm xuất khẩu; tạo cơ hội việc làm, phát triển sản xuất và tăng thu nhập cho nông dân.
Điều này được thể hiện rõ qua kim ngạch xuất khẩu ngành thời gian qua, đặc biệt trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành nông nghiệp Việt Nam (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) vẫn duy trì tăng trưởng xuất khẩu ổn định, làm chỗ dựa cho nền kinh tế quốc dân. Mặc dù tốc độ tăng GDP nông nghiệp và tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP quốc gia có xu hướng giảm, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, tạo thu nhập và việc làm ổn định cho 25 triệu lao động nông nghiệp (trong tổng số 34 triệu lao động nông thôn). Bên cạnh đó, hội nhập đã giúp Việt Nam bước đầu vượt qua rào cản thuế quan đối với một số nông sản mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu như gạo, thủy sản,... Việc gia nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới cũng giúp Việt Nam tiếp cận với nguồn nguyên liệu ổn định hơn cho sản xuất, có chất lượng tốt và giá cả cạnh tranh, thúc đẩy nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu.
Kể từ khi tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã có quan hệ thương mại ổn định với hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tăng gấp 3 lần so với thời kỳ trước đó. Các nước nhập khẩu nông sản Việt Nam ngày càng mở rộng từ Bắc Mỹ, châu Âu, Đông Bắc Á, châu Úc sang Nam Mỹ, châu Phi và Tây Á; các thị trường nông sản chủ lực của Việt Nam là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN, EU, Hà Lan, Anh, Úc,...
Thêm vào đó, quá trình hội nhập đã tạo điều kiện cho ngành nông nghiệp tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN), nâng cao năng suất chất lượng, khả năng cạnh tranh nông, lâm, thủy sản và tăng cường hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong đó, sự gia tăng cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu và doanh nghiệp nước ngoài đã tạo sức ép tích cực lên doanh nghiệp và các nhà sản xuất. Việc cải tiến KHCN, đầu tư phát triển sản phẩm được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sản xuất, giúp nâng cao chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao năng suất, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và tiêu chuẩn chất lượng của các thị trường tiêu dùng khó tính. Nhiều kỹ thuật tiên tiến và các tiêu chuẩn kỹ thuật như VIETGAP, ISO, HACCP,… trong lĩnh vực sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, nuôi trồng và chế biến thủy sản đã và đang được áp dụng tại Việt Nam. Các tiêu chuẩn quốc gia về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật của Việt Nam có tỷ lệ hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế tham chiếu ngày càng tăng.
Đặc biệt, ứng dụng KHCN trong sản xuất nông nghiệp đã từng bước nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới và tạo sự bứt phá đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như lúa gạo, thủy sản, cà phê, hạt tiêu, hạt điều,... Ngành trồng trọt và chăn nuôi thời gian qua đã chú trọng đến việc áp dụng KHCN tiên tiến về gen, tăng cường sử dụng giống mới trong sản xuất nhằm kiểm soát dịch bệnh, tăng cường năng suất và chất lượng sản phẩm. Ngành thủy sản tiên phong áp dụng KHCN trong sản xuất giống, sử dụng công nghệ nuôi trồng tiên tiến, công nghệ chế biến hiện đại làm tăng sản lượng, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới.
Quá trình mở cửa và trước áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng, cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản đã chuyển dịch theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả gắn với nhu cầu thị trường. Trong nội bộ các ngành cũng có chuyển biến cơ cấu tích cực: Diện tích gieo trồng lúa giảm, diện tích các cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả có giá trị hàng hóa tăng nhanh; trong chăn nuôi, hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại thay thế dần mô hình chăn nuôi tận dụng nhỏ lẻ ở gia đình. Một số rau hoa củ quả nhiệt đới vươn lên giúp Việt Nam trở thành nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo và cà phê, đứng thứ năm thế giới về xuất khẩu chè và đứng đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu.
Tất cả những điểm nêu trên cho thấy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo thay đổi trong cơ cấu sản xuất, tập trung vào các mặt hàng Việt Nam có lợi thế và có năng lực cạnh tranh quốc tế. Thành tựu đạt được trong những năm qua của toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đã khẳng định tác động tích cực của hội nhập thương mại quốc tế đối với cơ cấu sản xuất trong nước, hướng tới xuất khẩu, gia tăng giá trị sản phẩm và phát triển bền vững.
Nhiều rào cản trong quá trình hội nhập
Về tác động bất lợi, quá trình hội nhập cũng đồng nghĩa với việc gia tăng cạnh tranh và áp lực, làm thu hẹp một số lĩnh vực sản xuất có khả năng cạnh tranh thấp. Với sự cắt giảm rào cản thuế quan, gỡ bỏ rào cản kỹ thuật và hành chính đã tạo ra tăng trưởng sức ép cạnh tranh giữa hàng hóa nhập khẩu và sản xuất trong nước. Sự hạn chế về vốn, công nghệ, năng lực sản xuất và trình độ quản lý khiến các nhà sản xuất và doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với nguy cơ bị các tập đoàn toàn cầu và các doanh nghiệp lớn thâu tóm.
Thực tế, sau hơn một thập kỷ hội nhập cho thấy, trong khi một số ngành hàng tận dụng được các lợi thế do mở cửa mang lại như lúa, cao su, cà phê, thủy sản, sản phẩm gỗ, trong khi một số ngành phải thu hẹp sản xuất do phải đối mặt với nguy cơ cạnh tranh cao như đậu tương, bông...
Khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, hàng hoá nông lâm thủy sản của có xu thế đối mặt với nhiều rào càn thương mại được các nước nhập khẩu đặt ra để bảo hộ sản xuất trong nước. Với các yêu cầu ngày càng khắt khe về chất lượng và an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, các yêu cầu về bảo vệ môi trường, các vụ kiện chống trợ cấp, chống bán phá giá và tranh chấp thương mại là thực tế mà các doanh nghiệp và cơ quan quản lý của Việt Nam sẽ phải đối mặt. Đây là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam.
Hiện nay, nhận thức về luật pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp của các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp chưa đầy đủ. Các hoạt động vận động hành lang còn chưa được chú trọng đúng mức; chưa có nhiều kinh nghiệm đối phó và thường rơi vào thế bị động khi tham gia giải quyết tranh chấp. Doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp trong điều kiện này phải dựa chủ yếu vào các công ty luật và luật sư nước ngoài với mức chi phí khá cao; ý thức tự bảo vệ và chủ động tham gia kháng kiện không thật sự mạnh mẽ và chưa có kế hoạch đầu tư thích đáng vào lĩnh vực này.
Mặt khác, chúng ta vẫn còn chậm điều chỉnh cơ cấu sản xuất để khai thác cơ hội thị trường và phát huy lợi thế so sánh của các vùng. Cơ cấu sản xuất vẫn nặng về các sản phẩm truyền thống có giá trị thấp nên chưa tận dụng được hết các cơ hội thị trường các sản phẩm mới có giá trị cao hơn. Tăng trưởng sản xuất chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Thiếu các quy hoạch vùng và các chính sách đầu tư phù hợp vào ngành nghề cụ thể mà thị trường trong nước và thế giới có nhu cầu cao và Việt Nam có thế mạnh sản xuất và có khả năng cạnh tranh.
Thực tế, năng lực cạnh tranh thấp ở cấp quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa bền vững. Điều này do vốn đầu tư thấp, thiếu khoa học công nghệ trình độ cao, thiếu nguồn nhân lực lao động và quản lý chất lượng cao, hạ tầng chưa đồng bộ, hệ thống quản lý tiêu chuẩn và phát triển thị trường chưa đảm bảo, chưa tạo đủ thuận lợi cho nông sản Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới. Tổ chức sản xuất nông, lâm, thủy sản còn phân tán, thể hiện ở kết cấu hạ tầng tại các vùng sản xuất tập trung chưa phát triển; quy mô đất đai còn nhỏ bé; các hợp tác xã và tổ chức kinh tế hợp tác chưa phát triển được nhiều hoạt động dịch vụ. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước ở lĩnh vực nông nghiệp còn yếu kém, trong khi các doanh nghiệp tư nhân lại chưa phát triển, tính liên kết trong sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp còn hạn chế.
Mặt khác, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành nông nghiệp còn rất hạn chế do tính rủi ro cao khi đầu tư vào ngành. Tính đến tháng 8/2014, tổng số dự án luỹ kế còn hiệu lực trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp là 512 với tổng số vốn đăng ký trên 3,43 tỷ USD, chỉ chiếm 3,06% tổng số dự án FDI và 1,35% tổng số vốn đăng ký của các dự án FDI trong cả nước.
Chủ động tham gia các cam kết thị trường quan trọng
Nhằm khắc phục những khó khăn, phát huy và tận dụng hiệu quả lợi thế do hội nhập quốc tế mang lại trong ngành nông nghiệp, theo dự thảo chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế ngành NN&PTNT đến năm 2030, thời gian tới, Việt Nam sẽ chủ động tham gia các cam kết thị trường quan trọng, mang tính chiến lược của khu vực và thế giới. Cụ thể, tăng cường tiếp cận các thị trường nông sản quan trọng; ưu tiên tăng cường với các đối tác lớn về sản xuất, kinh doanh nông nghiệp.
Đối với các FTA đang đàm phán sẽ theo định hướng tăng thị phần, thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản vào các đối tác trong FTAs thông qua xóa bỏ thuế quan, hạn chế các hàng rào kỹ thuật đối với hàng nông lâm thuỷ sản, đàm phán công nhận lẫn nhau về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật. Đẩy mạnh hợp tác kinh tế, kỹ thuật, sở hữu trí tuệ và giải quyết tranh chấp; giảm nhẹ các biện pháp phòng vệ thương mại, xâm nhập sâu hơn vào thị trường thông qua cơ hội liên kết với các tập đoàn bán lẻ. Đồng thời, bảo vệ một số ngành sản xuất trong nước còn nhiều yếu kém nhưng có triển vọng tăng cường khả năng cạnh tranh trong tương lai. Tăng cường hợp tác quốc tế trong các nỗ lực chống khai thác và thương mại bất hợp pháp động thực vật hoang dã và bảo vệ nguồn lợi tự nhiên.
Trong đó, riêng với ngành hàng lúa gạo, sẽ tăng cường đàm phán để hạ thấp hàng rào thuế quan. Tăng cường liên kết đầu tư sản xuất tại các vùng chuyên canh ở Việt Nam để đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của từng thị trường và đảm bảo lợi ích của các bên. Thúc đẩy liên kết doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam với doanh nghiệp của các nước nhập khẩu xây dựng chuỗi giá trị kết nối trực tiếp với nơi tiêu thụ. Tạo điều kiện để tiếp cận các nhà bán lẻ lớn; phối hợp, thiết lập hệ thống thông tin thị trường cụ thể, minh bạch, kịp thời đặc biệt là những thông tin về tiêu chuẩn chất lượng và kỹ thuật.
Với ngành hàng rau quả, phối hợp, thiết lập hệ thống thông tin thị trường cụ thể, minh bạch, kịp thời; đặc biệt là những thông tin về tiêu chuẩn chất lượng và kỹ thuật. Đẩy mạnh đàm phán, đấu tranh về vấn đề rào cản kỹ thuật để đảm bảo tiêu chuẩn ở mức độ hợp lý, tạo điều kiện phát triển thương mại công bằng. Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đẩy mạnh tiếp cận các tập đoàn xuyên quốc gia, chuỗi siêu thị lớn, hệ thống bán lẻ để kết nối trực tiếp với các thị trường này. Phối hợp, liên hết, thu hút đầu tư để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần, chế biến, vận chuyển,...nhằm gia tăng giá trị, giảm chi phí vận chuyển.
Với ngành hàng thủy sản, với các thị trường Hoa Kỳ, Nhật, EU và các nước phát triển, tiếp tục đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa sản phẩm, gia tăng giá trị cho sản phẩm thủy sản. Tập trung xử lý các vấn đề rào cản thuế, kỹ thuật, công nhận lẫn nhau thông qua đàm phán song phương và đa phương dưới các hình thực thích hợp. Chú trọng công tác nghiên cứu thị trường ngoài nước, thị trường trong nước, đánh giá trữ lượng, năng lực sản xuất, thị trường và các thông tin cần thiết khác để đảm bảo tính minh bạch và dễ dự đoán của thị trường. Đẩy mạnh tham gia các hội chợ thương mại, trao đổi kỹ thuật,…để quảng bá các tiêu chuẩn sản xuất tiên tiến của Việt Nam và hàng Việt Nam chất lượng cao.
Với ngành hàng cà phê, xúc tiến kêu gọi đầu tư vào công nghiệp chế biến, kết nối chế biến với tiêu thụ qua hình thức liên doanh liên kết, đảm bảo kết nối kênh tiêu thụ thông qua tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng cà phê tại các thị trường này. Thu hút đầu tư, liên doanh, liên kết phát triển chế biến cà phê tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu thị hiếu tiêu dùng của nước nhập khẩu. Xúc tiến các chương trình hợp tác quảng bá thương hiệu và văn hóa cà phê Việt, tham gia các chuỗi cung ứng tại các quốc gia này.
Trong đó, để thực hiện được mục tiêu đề ra, các giải pháp cần quan tâm đến gồm: Nghiên cứu, đánh giá, dự báo tác động hội nhập; nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản và doanh nghiệp. Đồng thời, tổ chức xây dựng lực lượng tham gia các tổ chức, liên minh quốc tế; cải cách thể chế và tăng cường năng lực hội nhập của bộ máy quản lý nhà nước; tuyên truyền, nâng cao nhận thức về hội nhập, đặc biệt là hàng rào kỹ thuật cho các chủ thể tham gia trong quá trình hội nhập quốc tế./.
Nguồn: dangcongsan.vn