Xuất khẩu thủy sản: Cơ hội từ thương chiến Mỹ - Trung

Xuất khẩu thủy sản: Cơ hội từ thương chiến Mỹ - Trung
Theo Bộ Công Thương, việc Mỹ tăng thuế nhập khẩu đối với thủy sản Trung Quốc trong bối cảnh chiến tranh thương mại giữa hai nước có thể là cơ hội đối với ngành thủy sản Việt Nam tại thị trường Mỹ. Vấn đề còn lại là các doanh nghiệp đổi mới sản xuất như thế nào để đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

Xuất khẩu cá tra tăng, tôm giảm

Theo thống kê của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT), giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 5/2019 ước đạt 728 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản 5 tháng đầu năm 2019 ước đạt 3,2 tỷ USD, giảm 1,7 % so với cùng kỳ năm 2018. Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2019, chiếm 53,7% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản.

Trong khi kim ngạch xuất khẩu thủy sản 5 tháng đầu năm 2019 giảm thì giá trị nhập khẩu mặt hàng này lại tăng, cụ thể, tổng giá trị thủy sản nhập khẩu 5 tháng đầu năm 2019 đạt 735 triệu USD, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2018.

 xuat khau thuy san: co hoi tu thuong chien my - trung hinh anh 1

Xuất khẩu thủy sản có thể  tăng  trong thời gian tới. Ảnh: T.L

Đối với hai mặt hàng chính là tôm và cá tra, 4 tháng đầu năm 2019 xuất khẩu cá tra mặc dù giảm 7% về lượng, nhưng vẫn tăng 0,6% về trị giá so với cùng kỳ năm trước do giá xuất khẩu mặt hàng cá tra quý I/2019 tăng mạnh. Tuy nhiên, trong 4 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu tôm giảm mạnh do phải cạnh tranh gay gắt với tôm của các nước xuất khẩu khác như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia.

Theo tính toán của Tổng cục Hải quan, 4 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu tôm đạt 92.860 tấn, trị giá 839,28 triệu USD, giảm 10,3% về lượng và giảm 16% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.

Đáng lưu ý, xuất khẩu thủy sản sang thị trường Trung Quốc vẫn khá triển vọng, dự kiến đạt kim ngạch 1,5 tỷ USD trong năm 2019. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc vẫn tăng đều đặn từng năm với sản lượng khoảng hơn 3 triệu tấn.

Người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng sản phẩm nước ngoài và khai thác tự nhiên do lo ngại về an toàn thực phẩm. Đặc biệt, họ sẵn sàng bỏ tiền ra mua các sản phẩm đã được thị trường Mỹ và châu Âu chấp nhận. Điển hình như sản phẩm cá tra Việt Nam từ ngày vào Mỹ đã tăng mức tiêu thụ tại Trung Quốc.

Một tín hiệu lạc quan là số lượng xuất khẩu cá tra Việt Nam vào thị trường châu EU tăng mạnh khi các doanh nghiệp đã đáp ứng được nhu cầu của họ. Đặc biệt là giá trị xuất khẩu cá tra tăng ở các thị trường Hà Lan, Anh, Đức và Bỉ. Trong đó, sản phẩm cá tra giá trị gia tăng, sản phẩm cá tra được dán nhãn ASC (Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản) đang có xu hướng được ưa chuộng và có giá nhập khẩu cao hơn so với các sản phẩm khác.

Cơ hội từ chiến tranh thương mại

Trong báo cáo triển vọng các thị trường thực phẩm, Tổ chức Nông Lương Liên Hợp quốc (FAO) dự báo lượng thương mại thủy sản quốc tế giảm 2,6% trong năm 2019, mặc dù trị giá có thể tăng 0,9% lên 164,5 tỷ USD.

 xuat khau thuy san: co hoi tu thuong chien my - trung hinh anh 2

Chế biến cá tra xuất khẩu tại An Giang. Ảnh minh hoạ: I.T

Đồng thời, sản xuất thủy sản toàn cầu duy trì ổn định ở mức khoảng 177,8 triệu tấn. Tiêu dùng thủy sản đầu người trên toàn thế giới dự báo ổn định ở mức 20,5kg/người/năm. Như vậy cơ hội cho thủy sản Việt Nam tăng tốc thâm nhập vào các thị trường vẫn còn rất lớn.

Theo dự báo của Bộ Công Thương, trong thời gian tới xuất khẩu cá tra sang các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, ASEAN... sẽ tăng, nhưng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc sẽ gặp khó khăn. Việc Mỹ tăng thuế đối với thủy sản nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ có tác động lớn đến xuất khẩu thủy sản của Trung Quốc.

Do đó, các sản phẩm thủy sản của Trung Quốc sẽ quay trở lại phục vụ thị trường nội địa, đặc biệt là mặt hàng cá rô phi. Điều này có thể sẽ tác động đến nhu cầu nhập khẩu cá tra của Trung Quốc.

Trong khi đó, xuất khẩu tôm sẽ tiếp tục đối mặt với khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường và giá sẽ tiếp tục ở mức thấp. Do từ đầu năm 2019 đến nay thời tiết khá thuận lợi, nguồn cung tôm từ các nước nuôi tôm có sản lượng lớn như Ấn Độ, Ecuado, Indonesia, Thái Lan... đều tăng so với cùng kỳ năm 2018.

Từ tháng 6/2019 nguồn cung tôm cung cấp ra thị trường toàn cầu sẽ tăng mạnh do các nước sản xuất lớn vào vụ thu hoạch, do đó, giá tôm sẽ tiếp tục ở mức thấp.

Tuy nhiên, Bộ Công Thương nhận định, việc Mỹ tăng thuế nhập khẩu đối với thủy sản Trung Quốc lại là cơ hội đối với ngành thủy sản Việt Nam tại thị trường Mỹ. Để bù đắp nguồn cung giá cao do bị áp thuế ở mức cao từ thị trường Trung Quốc, các nhà nhập khẩu nước này sẽ buộc phải tìm kiếm nguồn cung thay thế để đối phó với tình trạng giá thủy sản tại Mỹ tăng.

Bên cạnh đó, Trung Quốc đã phê duyệt cho 33 mặt hàng thủy sản của Việt Nam được miễn thuế khi xuất khẩu vào Trung Quốc. Trong đó bao gồm nhiều mặt hàng thủy sản thế mạnh của Việt Nam như: Tôm hùm, tôm sú, tôm biển, cá basa, cá nục gai, cá ngừ đại dương, bạch tuộc... Đây là cơ hội để thủy sản Việt Nam khai thác tốt hơn nữa thị trường Trung Quốc.

Tuy nhiên, thị trường này ngày càng yêu cầu khắt khe hơn về chất lượng và nguồn gốc sản phẩm. Trung Quốc đã đầu tư xây dựng, nâng cấp các phòng kiểm nghiệm, kiểm dịch chất lượng hàng hóa quy mô lớn tại khu vực giáp biên với trang thiết bị hiện đại, có năng lực kiểm định không thua kém các cơ sở của nước phát triển khác như Mỹ, Nhật Bản, EU.... Theo kế hoạch, từ ngày 1/10/2019, các lô hàng thực phẩm nhập khẩu vào Trung Quốc đều phải có chứng thư xuất khẩu đi kèm.

Do đó, các doanh nghiệp cần chú ý đến phương thức sản xuất và xuất khẩu. Cụ thể, cần lưu ý các yêu cầu mới về chất lượng, truy xuất nguồn gốc cũng như các quy định, tiêu chuẩn về bao bì, đóng - ghi nhãn hàng hóa và mã vạch vùng miền để xuất khẩu bền vững cũng như nâng cao giá trị gia tăng.

Theo VASEP, đối với mặt hàng tôm, muốn tăng sức cạnh tranh, người nuôi tôm cần hướng tới nuôi tôm sạch đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế thị trường yêu cầu như ASC, BAP… để dễ thâm nhập vào các hệ thống phân phối thủy sản cao cấp, có giá tiêu thụ tốt.

Các giải pháp cần thiết trong thực tế trước mắt là: Kiểm soát chặt chẽ chế phẩm nuôi tôm và chỉ cho lưu thông trên thị trường chất lượng tôm giống tốt. Nhân rộng mô hình nuôi tôm mới thành công như nuôi tôm hai giai đoạn nhằm giảm rủi ro. Bên cạnh đó, cần tính toán đến giải pháp tiết kiệm điện, nước, cải tiến hệ thống quạt giảm hao phí điện. Tính toán mức thức ăn phù hợp để giảm tỷ lệ chuyển đổi và giảm ô nhiễm môi trường. Ở các địa phương có nhiều hộ nuôi tôm nhỏ lẻ cần hướng tới thành lập các tổ hợp tác để tập trung thành một đầu mối mua vật tư thủy sản nuôi tôm với số lượng nhiều và giá rẻ hơn.

Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường lưu ý các địa phương có giải pháp vận động, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp tham gia liên kết chuỗi, kiểm soát tốt quy hoạch, không để xảy ra tình trạng tăng diện tích ương nuôi tôm, cá tra vượt kiểm soát. Đặc biệt, cần tiếp tục đẩy mạnh liên kết tất cả công đoạn của chuỗi giá trị để gắn kết sản xuất với tiêu thụ, kịp thời thông tin về thị trường để chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp, hạn chế rủi ro mất cân bằng trong cung cầu.

Khánh Nguyên /http://danviet.vn
X
em bài viết gốc tại đây!