“Đại phú nông” ở Trạm Sừng
- Thứ năm - 26/12/2013 01:51
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Thung lũng Trạm Sừng thuộc xã Văn Hán (Đồng Hỷ, Thái Nguyên) là vùng đất nghèo, heo hút bởi giao thông đi lại khó khăn, các công trình hạ tầng đều thiếu, nhưng ông Phạm Văn Long (sinh năm 1958) đã làm nên “kỳ tích”, sở hữu khối tài sản lên đến vài tỷ đồng từ phát triển kinh tế rừng…
Giữ đất ở nơi “khỉ ho, cò gáy”
Thật không dễ dàng khi điều khiển xe máy vượt qua đoạn đường đất mấp mô, ngoằn ngoèo theo sườn núi dài gần 6km để vào nhà ông Phạm Văn Long. Điều khiến chúng tôi ngạc nhiên là từ những em nhỏ đến các cụ già sống ở những xóm nghèo ven đường chỉ dẫn chúng tôi rất rành rọt đường vào nhà ông Long với cụm từ “tỷ phú nhờ trồng rừng”. Thoạt nhìn người đàn ông đội chiếc mũ cối đã bạc màu, bộ quần áo bảo hộ lao động giản dị, chúng tôi không nghĩ đó là tỷ phú Long.
Theo lời kể của ông Long, cụm dân cư Trạm Sừng vốn được hợp thành bởi một số hộ dân người bản địa và các hộ ở tỉnh Hải Dương lên xây dựng vùng kinh tế mới từ năm 1967. Vùng đất này trước kia là nơi cây rừng rậm rạp, thú dữ, rắn, rết còn nhiều nên sau vài năm lên khai hoang, nhiều hộ dân không chịu được cảnh hoang vu, túng thiếu đã trở về quê cũ ở Hải Dương, một số hộ người bản địa dịch chuyển dần ra phía trung tâm xã Văn Hán. Ngay gia đình ông Long có 6 anh em thì 5 người lần lượt dời khỏi Trạm Sừng đi nơi khác lập nghiệp. Tiếc đất, tiếc công, ông Long kiên trì bám trụ, cần mẫn lao động xây dựng cơ nghiệp. Ấy thế mà, tính đến nay ông Long đã trải qua 20 mùa xuân ở mảnh đất gian khó này.
Hồi đó, với quỹ đất 2ha, vợ chồng ông Long đã được hỗ trợ cây keo giống theo Dự án trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc (PAM). Keo là loại cây phát triển tốt, trong khi diện tích rừng tự nhiên tại địa phương bị thu hẹp, nguyên liệu gỗ dần khan hiếm. Cũng từ thực tế đó, ông Long đã nghĩ tới chuyện làm giàu từ rừng trồng chứ không đơn thuần là nhận hỗ trợ “gạo kho” cứu đói.
Thời điểm đó, 4 người con của ông Long còn nhỏ, nên vợ chồng ông phải gửi con về nhờ ông bà nội chăm sóc để trồng rừng cho kịp thời vụ. Ngày ngày, vợ chồng ông cặm cụi lên đồi phát cây dại, cuốc lồ trồng cây từ mờ sáng đến quá trưa mới nghỉ ăn cơm nắm, uống nước ở khe núi. Rồi lại làm việc tới tận tối mịt mới về. Sau nửa năm trồng rừng, 2 vợ chồng đã phủ kín 2ha cây keo và cứ 3 ngày 1 lần, ông lại bỏ những công việc khác đi thăm rừng, cây nào chết thì trồng giặm lại.
Tới năm 1995, Nhà nước có chính sách giao đất rừng, gia đình ông Long được nhận 10ha nên tiếp tục trồng keo và mỡ. Cứ như vậy, tích lũy được khoản tiền nào là ông Long lại đi mua đất rừng để trồng cây. Trồng rừng kinh tế với diện tích lớn thời điểm đó của gia đình ông Long là chuyện “không bình thường”, đã có nhiều người dân địa phương khuyên ông dừng lại, có người còn cho rằng ông sẽ thất bại vì không ai mua cây. “Trồng rừng kinh tế tưởng dễ nhưng khi bắt tay vào làm mới thấy khó vì vốn đầu tư không nhỏ, thời gian khai thác cây keo dài tới chục năm. Để khắc phục những khó khăn trên, ngay từ khâu xử lý thực bì, tôi tận dụng tối đa lượng cây tạp để bán củi, bù vào chi phí nhân công. Tôi rất cảm ơn Dự án PAM vì đã mở ra hướng phát triển kinh tế rừng” - ông Long chia sẻ.
Bí quyết thành công là… cây gậy sắt
Trên đường đi thăm rừng cùng ông Long, chúng tôi hỏi: “Trước khi quyết định dốc toàn bộ công sức, sản nghiệp vào trồng rừng, chú có đi học kinh nghiệm ở đâu?”. Với vẻ thật thà, ông Long chia sẻ: Tôi chủ yếu vừa trồng rừng, vừa rút kinh nghiệm nên mới đầu cũng gặp không ít khó khăn, tỷ lệ cây chết đến 30%, sinh trưởng không đều. Lúc đó, câu hỏi tại sao thổ nhưỡng ở đây rất phù hợp với cây keo mà tỷ lệ cây chết vẫn cao, nhất là vào thời điểm cây đã trồng được 3-4 tháng tuổi cứ luẩn quẩn trong đầu tôi.
Cuối cùng tôi cũng tìm ra nguyên nhân vì cuốc lồ, đất xốp nên lượng nước thoát hơi nhanh, trong khi rễ cây keo khi mới trồng còn yếu. Sau đó, tôi liên tưởng đến việc dùng gậy chọc lỗ tra hạt lúa nương nên quyết định dùng cây gậy có đường kính khoảng 6cm vót nhọn, bọc sắt để chọc lỗ rồi đặt bầu cây keo, vun mùn xung quanh che kín miệng lỗ vào để giữ độ ẩm lâu hơn. Cách làm này đã giảm tỷ lệ cây bị chết sau khi trồng do thiếu nước và tốc độ trồng nhanh hơn gấp 3 lần so với cuốc lồ.
“Bí quyết” dùng gậy sắt trồng cây được ông Long chia sẻ cho một số người dân địa phương, nhưng chẳng ai tin, ngay một số cán bộ lâm nghiệp ban đầu cũng cho rằng dùng gậy sắt chọc lỗ trồng cây không đúng kỹ thuật hướng dẫn, nhưng sau thừa nhận đây là cách làm hiệu quả.
Từ khi dùng phương pháp lấy gậy sắt chọc lỗ trồng cây, ông Long không còn lo chậm thời vụ và mỗi năm trồng thêm được khoảng 5ha. Trồng cây hết phần đất của gia đình, ông Long lại mua thêm những phần đất rừng người dân địa phương không sử dụng, có nhu cầu bán nên tổng diện tích đất có rừng của gia đình ông đến nay đã có 31ha (trị giá từ 50 -75 triệu đồng/ha).
Theo sau ông Long đi sâu vào cánh rừng ở bắc và khu nam thung lũng Trạm Sừng, đây là “đại bản doanh” với những rừng keo, mỡ bạt ngàn đã đến tuổi khai thác của gia đình. Ông Long kể: “Hơn 10 năm trước, khu đất rộng hơn chục ha này toàn cây bụi nên khi nhận chuyển nhượng, tôi đã thuê máy xúc mở đường ô tô vào đến tận chân rừng để thuận tiện cho việc trồng, chăm sóc cây và khai thác. Những nơi sườn núi có độ dốc lớn, đất nhiều đá, tôi trồng cây mỡ, nơi gần khe nước, thung lũng trồng keo. Đặc biệt là tận dụng tối đa những diện tích đất sát với đường đi để trồng cây vì đây là nơi dễ chăm bón và khai thác nhất…”.
Căn nhà vợ chồng ông Long đang ở Trạm Sừng rộng, sạch sẽ, nhưng không nguy nga, đồ đạc trong nhà đủ dùng mà không xa xỉ mới thấy họ là người có của nhưng rất giản dị, tiết kiệm. Nói về ông Long, Chủ tịch UBND xã Văn Hán Nguyễn Xuân Hiền không khỏi thán phục, nhận xét: “Tài sản hiện có là do vợ chồng ông Long chăm chỉ lao động, chắt chiu mà có nên nhân dân trong xã rất nể phục. Nhiều hộ ở Văn Hán có đất rừng đã học tập kinh nghiệm trồng rừng kinh tế của ông Long, nên cũng có thu nhập khá. Có điều kiện kinh tế nhưng ông Long sống bình dị, sẵn lòng giúp đỡ mọi người và tích cực tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương, nuôi dạy các con ăn học nên người…”.
Giữ đất ở nơi “khỉ ho, cò gáy”
Thật không dễ dàng khi điều khiển xe máy vượt qua đoạn đường đất mấp mô, ngoằn ngoèo theo sườn núi dài gần 6km để vào nhà ông Phạm Văn Long. Điều khiến chúng tôi ngạc nhiên là từ những em nhỏ đến các cụ già sống ở những xóm nghèo ven đường chỉ dẫn chúng tôi rất rành rọt đường vào nhà ông Long với cụm từ “tỷ phú nhờ trồng rừng”. Thoạt nhìn người đàn ông đội chiếc mũ cối đã bạc màu, bộ quần áo bảo hộ lao động giản dị, chúng tôi không nghĩ đó là tỷ phú Long.
Rừng keo, mỡ sắp được khai thác của gia đình ông Phạm Văn Long.
Theo lời kể của ông Long, cụm dân cư Trạm Sừng vốn được hợp thành bởi một số hộ dân người bản địa và các hộ ở tỉnh Hải Dương lên xây dựng vùng kinh tế mới từ năm 1967. Vùng đất này trước kia là nơi cây rừng rậm rạp, thú dữ, rắn, rết còn nhiều nên sau vài năm lên khai hoang, nhiều hộ dân không chịu được cảnh hoang vu, túng thiếu đã trở về quê cũ ở Hải Dương, một số hộ người bản địa dịch chuyển dần ra phía trung tâm xã Văn Hán. Ngay gia đình ông Long có 6 anh em thì 5 người lần lượt dời khỏi Trạm Sừng đi nơi khác lập nghiệp. Tiếc đất, tiếc công, ông Long kiên trì bám trụ, cần mẫn lao động xây dựng cơ nghiệp. Ấy thế mà, tính đến nay ông Long đã trải qua 20 mùa xuân ở mảnh đất gian khó này.
Hồi đó, với quỹ đất 2ha, vợ chồng ông Long đã được hỗ trợ cây keo giống theo Dự án trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc (PAM). Keo là loại cây phát triển tốt, trong khi diện tích rừng tự nhiên tại địa phương bị thu hẹp, nguyên liệu gỗ dần khan hiếm. Cũng từ thực tế đó, ông Long đã nghĩ tới chuyện làm giàu từ rừng trồng chứ không đơn thuần là nhận hỗ trợ “gạo kho” cứu đói.
Thời điểm đó, 4 người con của ông Long còn nhỏ, nên vợ chồng ông phải gửi con về nhờ ông bà nội chăm sóc để trồng rừng cho kịp thời vụ. Ngày ngày, vợ chồng ông cặm cụi lên đồi phát cây dại, cuốc lồ trồng cây từ mờ sáng đến quá trưa mới nghỉ ăn cơm nắm, uống nước ở khe núi. Rồi lại làm việc tới tận tối mịt mới về. Sau nửa năm trồng rừng, 2 vợ chồng đã phủ kín 2ha cây keo và cứ 3 ngày 1 lần, ông lại bỏ những công việc khác đi thăm rừng, cây nào chết thì trồng giặm lại.
Tới năm 1995, Nhà nước có chính sách giao đất rừng, gia đình ông Long được nhận 10ha nên tiếp tục trồng keo và mỡ. Cứ như vậy, tích lũy được khoản tiền nào là ông Long lại đi mua đất rừng để trồng cây. Trồng rừng kinh tế với diện tích lớn thời điểm đó của gia đình ông Long là chuyện “không bình thường”, đã có nhiều người dân địa phương khuyên ông dừng lại, có người còn cho rằng ông sẽ thất bại vì không ai mua cây. “Trồng rừng kinh tế tưởng dễ nhưng khi bắt tay vào làm mới thấy khó vì vốn đầu tư không nhỏ, thời gian khai thác cây keo dài tới chục năm. Để khắc phục những khó khăn trên, ngay từ khâu xử lý thực bì, tôi tận dụng tối đa lượng cây tạp để bán củi, bù vào chi phí nhân công. Tôi rất cảm ơn Dự án PAM vì đã mở ra hướng phát triển kinh tế rừng” - ông Long chia sẻ.
Bí quyết thành công là… cây gậy sắt
Trên đường đi thăm rừng cùng ông Long, chúng tôi hỏi: “Trước khi quyết định dốc toàn bộ công sức, sản nghiệp vào trồng rừng, chú có đi học kinh nghiệm ở đâu?”. Với vẻ thật thà, ông Long chia sẻ: Tôi chủ yếu vừa trồng rừng, vừa rút kinh nghiệm nên mới đầu cũng gặp không ít khó khăn, tỷ lệ cây chết đến 30%, sinh trưởng không đều. Lúc đó, câu hỏi tại sao thổ nhưỡng ở đây rất phù hợp với cây keo mà tỷ lệ cây chết vẫn cao, nhất là vào thời điểm cây đã trồng được 3-4 tháng tuổi cứ luẩn quẩn trong đầu tôi.
Cuối cùng tôi cũng tìm ra nguyên nhân vì cuốc lồ, đất xốp nên lượng nước thoát hơi nhanh, trong khi rễ cây keo khi mới trồng còn yếu. Sau đó, tôi liên tưởng đến việc dùng gậy chọc lỗ tra hạt lúa nương nên quyết định dùng cây gậy có đường kính khoảng 6cm vót nhọn, bọc sắt để chọc lỗ rồi đặt bầu cây keo, vun mùn xung quanh che kín miệng lỗ vào để giữ độ ẩm lâu hơn. Cách làm này đã giảm tỷ lệ cây bị chết sau khi trồng do thiếu nước và tốc độ trồng nhanh hơn gấp 3 lần so với cuốc lồ.
Ngoài bí quyết “chiếc gậy sắt”, ông Long còn nghĩ ra việc “trồng dày, tỉa thưa”, tức là thời điểm đầu trồng 2.500 cây/ha để tạo tán, ngăn cỏ dại mọc, nhưng sau 2 - 3 năm sẽ tỉa những cây cong, cây còi bán củi, chỉ để tỷ lệ còn khoảng 1.600 cây/ha. Khi cây được 4 năm tuổi tiếp tục tỉa những cây nhiều cành để lấy củi bán và tạo khoảng trống giúp cây nào cũng có đủ ánh sáng phát triển. Với kinh nghiệm này, ông Long đã giảm được rất nhiều công phát thực bì định kỳ và tạo ra nguồn thu khoảng 130 triệu đồng từ tiền bán củi trong suốt chu kỳ phát triển của rừng trồng. |
Từ khi dùng phương pháp lấy gậy sắt chọc lỗ trồng cây, ông Long không còn lo chậm thời vụ và mỗi năm trồng thêm được khoảng 5ha. Trồng cây hết phần đất của gia đình, ông Long lại mua thêm những phần đất rừng người dân địa phương không sử dụng, có nhu cầu bán nên tổng diện tích đất có rừng của gia đình ông đến nay đã có 31ha (trị giá từ 50 -75 triệu đồng/ha).
Theo sau ông Long đi sâu vào cánh rừng ở bắc và khu nam thung lũng Trạm Sừng, đây là “đại bản doanh” với những rừng keo, mỡ bạt ngàn đã đến tuổi khai thác của gia đình. Ông Long kể: “Hơn 10 năm trước, khu đất rộng hơn chục ha này toàn cây bụi nên khi nhận chuyển nhượng, tôi đã thuê máy xúc mở đường ô tô vào đến tận chân rừng để thuận tiện cho việc trồng, chăm sóc cây và khai thác. Những nơi sườn núi có độ dốc lớn, đất nhiều đá, tôi trồng cây mỡ, nơi gần khe nước, thung lũng trồng keo. Đặc biệt là tận dụng tối đa những diện tích đất sát với đường đi để trồng cây vì đây là nơi dễ chăm bón và khai thác nhất…”.
Căn nhà vợ chồng ông Long đang ở Trạm Sừng rộng, sạch sẽ, nhưng không nguy nga, đồ đạc trong nhà đủ dùng mà không xa xỉ mới thấy họ là người có của nhưng rất giản dị, tiết kiệm. Nói về ông Long, Chủ tịch UBND xã Văn Hán Nguyễn Xuân Hiền không khỏi thán phục, nhận xét: “Tài sản hiện có là do vợ chồng ông Long chăm chỉ lao động, chắt chiu mà có nên nhân dân trong xã rất nể phục. Nhiều hộ ở Văn Hán có đất rừng đã học tập kinh nghiệm trồng rừng kinh tế của ông Long, nên cũng có thu nhập khá. Có điều kiện kinh tế nhưng ông Long sống bình dị, sẵn lòng giúp đỡ mọi người và tích cực tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương, nuôi dạy các con ăn học nên người…”.
Nguồn: danviet.vn