Người cửa biển...
- Chủ nhật - 04/06/2017 01:59
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Bình minh Cửa Sót. Ảnh: Nguyễn Thanh Hải
Khi tôi ra nhà cố thì chị con dâu nói rằng:
- Cố đang đi nhởi (chơi).
- Nhởi ở đâu? - Tôi hỏi.
- Cố ra cảng cá tầm này sắp về rồi. Chú ngồi nhởi một lát, uống nước chè xanh tôi mới nấu - chị nói.
Thấy tôi nhấp nhổm định phóng xe máy ra cảng cá đón cố về thì chị ngăn lại: - Không đời mô cố ngồi xe. Dưới biển thì đi thuyền, lên bờ thì đi bộ.
Quả thật, chốc lát đã thấy cố Dật khoan thai bước về, đi chân đất. Dáng người cố cao lớn, lưng thẳng, những ngón chân tõe ra, khó có đôi dép nào vừa được.
Cố bảo: - Tui đi bộ quen rồi cho dẻo khớp. Suốt đời nằm trên nôốc (thuyền), có khi mô xỏ dép đâu.
Nói rồi cố quay sang chị con dâu bảo: - Bựa ni trời sương mù, được nhiều cá lắm!.
Nhân đó, tôi hỏi cố: - Ở vùng biển ta có nhiều loại cá không cố?.
Cố nói: - Nhiều lắm!. Nói rồi cố nheo nheo mắt nhìn tôi: - Chú có biết không, trên rừng có con thú chi, thì ở dưới biển có con cá nớ. Đây tôi kể chú nghe. Cố giơ bàn tay có những ngón sần sùi nổi chai, nổi ngấn do những vòng cước từ ăn mòn vào, cộm lên như những vòng nhẫn - những chiếc nhẫn của người dân biển: - Chú đếm thử coi, cá có các loại cùng với tên con thú như: Cá bò, cá chim, cá dơi, cá ngựa, cá chuồn, cá ve, cá voi, cá chó (hải cẩu), sư tử biển rồi cá ong nữa… Còn tôm thì tôm hùm (hổ). Lại có loài cá mang tên bữa ăn của người dân nghèo như cá cơm, cá cháo. Lại có tên loài quả như cá cam, cá dưa, cá khế. Lại có loài giống một dụng cụ như cá đục, cá cào, cá kiếm…
Ngồi trên ghế uống nước chè, tôi thấy cố cứ lắc lư như không yên, không vững. Chị con dâu chạy vào nhà bê ra chiếc rương gỗ hình vuông, nước gỗ đã ngả bóng thời gian chằn chặn như một cái ghế chắc chắn. Theo thói quen thường ngày, cố Dật chuyển sang ngồi lên đó vững chãi như một bức tượng. Cố nói: - Bữa ăn tôi ngồi lên cái “gia tài” này mới ăn ngon chú ạ, quen rồi.
Cố Dật bên tấm thiếp mừng thọ 100 tuổi do Chủ tịch nước tặng.
“Gia tài” của một lão ngư hơn 100 tuổi thật giản đơn! Tôi tò mò xin phép cố lật nắp cái rương gỗ, thì ra, trong đó có chia ra nhiều ô, ngăn, mỗi ô đựng một dụng cụ đi biển như: Ô chứa lưỡi câu, mỗi loại cá có loại câu riêng, ô chứa đủ các vòng cước kích thước khác nhau, ô chứa các ống câu to nhỏ đã nhẵn bóng, ô chứa các loại phao câu… Cố nói: - Già rồi không đi biển nữa, giữ lại cho vui, cho đỡ nhớ biển, nhớ nghề thôi. Mà cũng thật lạ chú ạ. Cái rương ni không biết họ làm bằng gỗ chi mà không mối mọt đã đành, khi rớt xuống biển lại nổi và các mối đục gặp nước nở ra sít lại đố nước vào được. Nó thành cái phao cứu sống tui mấy lần.
Nói rồi cố vân vê từng mép gỗ: - Nó vừa là gia tài, vừa là ân nhân, vừa là bạn bè, vừa là cái ghế để ngồi câu. Thật tiện!.
Tôi hỏi cố: - Trong đời đi biển thì cố thích gì nhất?
- Thích nghe đài - Tui với cái đài như người bạn thân thiết. Đài để nghe thời tiết là chính, rồi đài để nghe hát dân ca, bây giờ, nhiều đêm, tui mở đài để nghe tiếng người mới ngủ được. Tui đọc chú nghe những câu đúc kết như: “Tháng ba trong nước em ơi/ Bớt cơm anh lại mà nuôi mẹ già”. Tháng ba trong nước, cá xót mắt, không ăn câu. Rồi “Tháng bảy nước chảy lo le” làm hai dòng nước xoắn vào nhau khó thả lưới. Rồi “Tháng chín nhịn đi buôn” vì tháng chín hay bão gió, khó đánh bắt. Nhân nói đến con nước, dòng nước, cố giải thích: Đừng tưởng trời yên, biển lặng mà chủ quan. Dưới mặt nước có bao biến đổi đến giật mình. Chú có biết không? Có lớp nước mặt phía trên, lại có nước sâm dưới đáy. Bốn dòng nước chạy chéo nhau như dấu cộng, lưới thả xuống là xoắn bện vào nhau. Chỉ có một thời điểm nào đó là lúc cả bốn dòng đều thuận một chiều thì ta đánh lưới.
Tôi hỏi cố Dật: - Thế sinh con nước, rồi “nước thơm” nghĩa là gì?
Cố thủng thẳng cười: - Sinh con nước theo mùa trăng mà ta quen gọi là thủy triều. Còn “nước thơm” là lúc thuận nước êm, cá không xót mắt.
Tôi tò mò hỏi: - Trong đời cố đi biển nguy hiểm nhất là lúc nào?
- Tháo gió chú ạ! Tháo gió là chạy tránh bão, đời tui đã mấy lần tháo gió. Mắt cố nhìn ra xa như nhớ lại một thời trai trẻ của mình: Mà gió cũng lắm thứ. Gió nồm, gió bấc, gió nam, gió chướng, rồi cả “gió chìa vôi”. Cố khẳng định: “Đó là loài gió đan chéo xoắn xuýt như cái đuôi chìa vôi. Ăn thua gì chú, bọn tui thường gọi là nạm (gói) “gió chìa vôi”.
Tôi hỏi: - Nghe họ đồn, Thạch Kim bây giờ chỉ có mỗi cố Dật là có tài nghe được tiếng cá kêu phải không? Cố lại cười, cái cười móm mém của người già nghe cứ khùng khục, rúc rích thật vui.
- Tài chi mô chú, tất cả là do mình luyện tai và tích lũy kinh nghiệm những loại cá như ngao vàng, ngao trắng, xóc nanh, xóc trắng, cá đù sẽ phát ra tiếng kêu lớn vì chúng thường tụ tập đi theo đàn với số lượng nhiều, tui lặn xuống sẽ phân biệt cá ngao vàng kêu lục tục, ngao trắng cũng vậy nhưng kêu đậm hơn. Cá xóc nang kêu cục cục, cá xóc trắng kêu túc túc… Nhưng điều này thì có, là tui ngửi được mùi bão. Cứ nhìn mây, nhìn sắc nước rồi thấy trạng thái giật giật trong người, rồi ngửi thấy mùi khác của rong biển trong gió là tui đoán có thay đổi thời tiết, vì hồi trước làm chi có đài. Còn đoán sắc màu của cá đàn, của ruốc đỏ thì tui trèo lên cột buồm để nhìn, mắt tui tinh lắm, tai tui thính lắm, đến giờ đọc báo vẫn chưa phải đeo kính.
- Thế bí quyết sống lâu của cố là gì? - Tôi tò mò.
- Tui chỉ có câu răn mình không ghét, giận ai, cứ để ngoài tai, mà suốt đời ở ngoài biển thì mắt nhìn mây đoán gió, tai nghe cá mà đánh bắt. Xung quanh thì là trời nước. Cả đời tui chỉ nghe giọng đài, mà giọng đài là giọng tốt, giọng hay.
- Thế đời đi biển của cố khó nhất là việc gì?
- Bỏ neo! Chú có nghe bọn trẻ ngâm nga không: “Suốt đời chỉ mấy thước dây (neo) - Kéo đi kéo lại mòn tay vẫn còn”. Ngư phủ hơn nhau là chuyện bỏ neo, bỏ neo trượt là đi đứt. Bão gió hay lúc đánh bắt thả lưới thì bỏ neo là quan trọng nhất. Phải đoán được luồng nước chảy, được gió, rồi chất đất ở đó bùn hay cát, đá hay rạn san hô để neo cắm chắc. Cả đời tôi chốt lại chỉ một chữ neo. Neo mình, neo bạn (người đi cùng thuyền), neo thuyền. Đứt neo là mất sạch! Nghe cố nói, tôi ngẫm nghĩ lại thật chí lý.
Từ nhà cố Dật, tôi trở lại xóm Sơn Bằng, Thạch Kim để gặp Trung, một ngư phủ trẻ, mới 32 tuổi mà nổi tiếng “sát cá”. Trung nhanh nhẹn, tháo vát và hài hước nữa. Trung bảo: - Em đi câu từ lúc 9 tuổi, mê câu hơn mê chữ, thuộc lưỡi câu hơn thuộc chữ cái. Em thuộc các tính cách ăn mồi của từng con cá. Như cá đục, trong đầu nó có một hạt sạn, gặp bữa động trời sấm rộ, lên hạt sạn gây cho đầu đau nhức, cá đục chui xuống dụi đầu vào cát, đố ai câu được một con. Câu mực cũng là một nghệ thuật, mực mẹo mà. Mực xây tổ như con ong, uốn lượn theo từng nếp sóng, như vòng khoai lang của dân làm ruộng. Mực chỉ thò cái đuôi ra ngoài vì thế khó nhử nó ra được. Khác với cá đục, những đêm biển nổi giông, mực lại kéo nhau ra ngoài ăn rộ lên vài tiếng rồi lặn biệt tăm. Có thuyền đậu đúng ổ mực, thả bất cứ dây gì xuống kéo lên, mực bám vào hàng chuỗi, thở khụt khịt như người bị viêm xoang mũi lúc trái gió trở trời. Lại có loài cá khó câu bằng mồi mà ta chỉ bắt được bằng bóng như cá hồng, cá sú. Bóng đan bằng tre già ngâm nước dẻo quánh thành những cái chuồng hình chữ nhật. Cửa vào bóng như cái hom dỏ. Vào thì dễ, ra thì khó.
- Thế câu bóng có khó không? - Tôi hỏi.
- Khó chứ - Ta phải buộc hòn chì nặng vào chiếc lưỡi câu to kéo rà sát đáy biển, gặp rạn đá san hô thì mắc lại. Các loài cá đặc sản thường nằm trong rạn đá. Cứ thế, con nọ vào chuồng (bóng) lại kéo con kia như sập bẫy chim mồi vậy. Câu cá là phải đoán chừng con nước, bựa nước thơm, nước mát thì cá ăn nhiều, dỗ cá cũng như dỗ trẻ con, phải mát tay và nhẹ vía, nóng nảy là không được. Cá nó cũng “nghệ sĩ” lắm”.
- Nghệ sĩ! Lần đầu tiên tôi được nghe từ này.
- Đúng thế! Trung linh hoạt, sôi nổi: - Anh đã xem cá heo diễn chưa, chúng uốn dẻo hơn cả diễn viên xiếc. Và khi được người trên thuyền vỗ tay hưởng ứng thì chúng lại càng tung hứng, phấn chấn hơn. Còn cá chim khó câu lắm. Phải chọn anh chàng nào da trắng nhất, uống nước mắm cánh gián cho nóng người rồi nhảy xuống biển uốn lượn mới dẫn dụ được cá chim vào lưới. Nói chung loài cá rất mê ánh sáng đèn và say cả âm thanh nữa. Nếu ta mở nhạc vũ hội là chúng từng bầy kéo nhau lên mặt nước thở híp hóp thật vui. Thế giới cá thật đa dạng. Ta thường nói “Cá lớn nuốt cá bé”. Nhưng không hẳn thế, chúng sống theo bầy đàn có trật tự, lớp lang lắm. Nhiều con cá bé chủ yếu sống ký sinh trên lưng con cá lớn, chúng dựa vào nhau...
Người cửa biển là thế, còn bao nhiêu người như cố Dật, như ngư dân Trung mà tôi chưa thể kể hết. Mỗi con người là một thế giới lạ kỳ!
Nguyễn Ngọc Phú/ Báo Hà Tĩnh