Nhận diện “rào cản” khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp
- Thứ năm - 18/01/2018 19:49
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Thực tiễn vừa qua cho thấy một số quy định chưa phù hợp xu hướng tích tụ, tập trung ruộng đất để triển khai dự án đầu tư, khởi nghiệp quy mô lớn. Đơn cử, để có thể triển khai dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp quy mô lớn, kỹ thuật cao, đòi hỏi chủ đầu tư phải có được diện tích đất rộng, thời hạn sử dụng lâu dài. Điều này giúp thực hiện cơ giới hóa, tự động hóa, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, đồng bộ sản phẩm trên diện rộng... Hiện nay đất sản xuất nông nghiệp chủ yếu thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình, cá nhân với diện tích nhỏ, manh mún, phân bổ không đồng đều. Qua nghiên cứu chỉ ra rằng, việc tiếp cận đất nông nghiệp khi triển khai dự án đầu tư gặp khó khăn do một số quy định của Luật Đất đai năm 2013 bộc lộ bất cập, cản trở nhu cầu tích tụ, tập trung ruộng đất, cụ thể như việc hạn chế việc chuyển đổi quyền sử dụng đất. Theo đó, hộ gia đình, cá nhân chỉ được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình, cá nhân khác Điều 179 và Điều 190, Luật Đất đai 2013. Quyền sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định chưa có cơ chế bảo vệ thỏa đáng vì Luật Đất đai cấm nhận chuyển quyền sử dụng đất vượt hạn mức quy định (Khoản 5, Điều 12) và khi thu hồi đất thì Nhà nước sẽ không bồi thường đối với diện tích đất ngoài hạn mức (bồi thường tài sản đầu tư trên đất). Tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, trừ trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất (Điều 191). Điều này ảnh hưởng trực tiếp nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức kinh tế có điều kiện về tài chính, kỹ thuật, mong muốn được đầu tư lâu dài vào lĩnh vực nông nghiệp. Hơn nữa, Luật Đất đai quy định theo hướng kiểm soát chặt các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội (Điều 62). Mặc dù đã có cơ chế doanh nghiệp tự thỏa thuận tiền đền bù để thực hiện dự án đầu tư, nhưng trong nhiều trường hợp khó đạt được sự đồng thuận của tất cả các hộ gia đình, cá nhân là người sử dụng đất. Điều này dẫn đến tình trạng không thể tích tụ, tập trung đất đai để mở rộng quy mô sản xuất, trong khi điều kiện để doanh nghiệp được giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án quy mô lớn trong nông nghiệp còn khó khăn, phức tạp. Vấn đề tồn tại khác là còn những “khoảng trống”, thiếu cơ chế pháp lý để điều chỉnh một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Pháp luật đất đai hiện hành chưa quy định rõ vai trò của Nhà nước trong hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân cho nên việc triển khai các dự án đầu tư của doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp quy mô lớn trên thực tế còn nhiều khó khăn, thậm chí “bế tắc” trong một số trường hợp liên quan công tác giải phóng mặt bằng. Ngoài ra, chưa hình thành khung pháp lý cần thiết về việc chính quyền thuê đất của hộ gia đình, cá nhân, sau đó cho doanh nghiệp thuê lại. Điều này dẫn đến rủi ro cao vì có những trường hợp hộ gia đình, cá nhân tìm mọi cách để đòi lại đất hoặc mâu thuẫn, khiếu kiện trong thời gian hợp đồng thuê đất còn hiệu lực. Bên cạnh đó, một loạt các vấn đề khác cũng cần nghiên cứu, bổ sung quy định điều chỉnh như: Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khi thuê lại đất của người dân, liên kết với người dân, xây dựng thành vùng nguyên liệu. Hay hướng dẫn cụ thể các chính sách đối với tổ chức, cá nhân thuê đất để phát triển chăn nuôi, xây dựng cơ sở giết mổ, bảo quản, chế biến công nghiệp và kiểm soát tình hình ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi... Nhiều chuyên gia pháp luật cho rằng, một số quy định của pháp luật đất đai thiếu thống nhất, chưa rõ ràng trong mối quan hệ với các quy định khác có liên quan. Pháp luật hiện hành chưa phân biệt cụ thể, rõ ràng trường hợp góp vốn bằng quyền sử dụng đất và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đất đai năm 2013. Theo đó, trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 tồn tại khái niệm "tài sản góp vốn là giá trị quyền sử dụng đất" (Điều 35), còn Luật Đất đai năm 2013 thì quy định "trường hợp góp vốn bằng quyền sử dụng đất" (Khoản 10, Điều 3), chưa phân biệt rõ hai hình thức góp vốn: Góp vốn để hợp tác kinh doanh và góp vốn để trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp. Do vậy, hộ gia đình, cá nhân lo ngại khi chuyển quyền sử dụng đất thành cổ phiếu, mà doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì có thể sẽ bị mất đất, đồng thời giá trị của vốn góp bằng quyền sử dụng đất không thay đổi theo sự phát triển của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, do chưa có khung pháp lý cụ thể, rõ ràng cho nên khó khăn trong sử dụng vốn góp bằng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng, phục vụ sản xuất và kinh doanh, cũng như trong quản lý, sử dụng tài sản doanh nghiệp trong thời gian góp vốn. Ngoài ra, Luật Thủy sản năm 2003 (Khoản 7, Điều 2) xác định nội hàm của khái niệm "mặt nước biển quy hoạch để nuôi trồng thủy sản", trong khi Luật Đất đai năm 2013 (Điều 140) quy định về "đất có mặt nước ven biển". Điều đó dẫn đến khó khăn khi lựa chọn luật thống nhất áp dụng, điều chỉnh. Nhận diện những “rào cản” pháp lý trong các quy định của Luật Đất đai hiện hành là rất cần thiết nhằm đề xuất chính sách pháp lý phù hợp, đáp ứng yêu cầu giải quyết hài hòa quyền lợi của người nông dân có đất. Bên cạnh đó giúp “cởi trói”, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư, khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian tới. |
TS HỒ QUANG HUY(Bộ Tư pháp)/ Nhân dân |