Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển nông nghiệp hữu cơ: Cơ hội và thách thức
- Chủ nhật - 30/09/2018 04:02
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Cơ hội
Theo Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ, Việt Nam là 1 trong 170 quốc gia, vùng lãnh thổ có mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ với 33/63 tỉnh, thành phố phát triển các mô hình nông nghiệp hữu cơ với diện tích gần 80.000ha. Theo Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ VN - TSKH Hà Phúc Mịch, nông nghiệp hữu cơ đóng vai trò trong việc đảm bảo và nâng cao sức khỏe của con người vì nông phẩm hữu cơ được SX luân canh cây trồng, cây trồng phủ đất, phân xanh, ủ phân động vật... giúp tăng các hoạt động vi sinh vật và tăng chất lượng đất vì không sử dụng các chất hóa học vô cơ độc hại gây nguy cơ bệnh tật và ảnh hưởng đến sự phát triển của con người. Nhất là các loại thuốc phòng trừ dịch hại hóa học, kháng sinh và các chất kích thích sinh trưởng. Khi con người sử dụng các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, có thể loại trừ hầu hết các mối nguy cơ từ các hóa chất độc hại trong khẩu phần ăn hàng ngày. Do đó, nhiều DN lớn đã đi tiên phong vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tổ chức sản xuất hữu cơ theo chuỗi phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu nhằm đưa ra thị trường các sản phẩm nông sản đạt tiêu chuẩn hữu cơ và bổ dưỡng cho người tiêu dùng.
Và thách thức
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Đo lường Chất lượng (Bộ KHCN) - Nguyễn Nam Hải, hiện thị trường cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam hiện còn rất mới, các hoạt động áp dụng và chứng nhận phù hợp với các tiêu chuẩn hữu cơ, công bố, gắn nhãn cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ còn chưa được triển khai rộng rãi, không được phổ biến và thiếu thông tin minh bạch dẫn đến các sản phẩm chưa trở thành nhu cầu tất yếu đối với cả người sản xuất và người tiêu dùng. Để giải quyết vấn đề và triển khai rộng rãi trong hoạt động SXKD, Tổng cục Đo lường Chất lượng đã xây dựng Bộ tiêu chuẩn quốc gia về nông nghiệp hữu cơ, đề cập tới quá trình SXKD, chế biến, ghi nhãn sản phẩm nông nghiệp hữu cơ và các hướng dẫn cụ thể về hoạt động chăn nuôi, trồng trọt để triển khai rộng rãi nhằm phát triển hoạt động SXKD nông nghiệp nói chung và hoạt động động SX nông nghiệp hữu cơ nói riêng.
Hiện nhiều mô hình sản sản xuất nông nghiệp hữu cơ đã ra đời với sự gia tăng về giá trị như mô hình sản xuất rau ở Lương Sơn (Hòa Bình), Thanh Xuân - Sóc Sơn (Hà Nội); chè Shan Tuyết Bắc Hà (Lào Cai); cam Hàm Yên (Tuyên Quang)... Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trong nước đã bắt đầu hình thành từ đây. Để hướng đến nền nông nghiệp phát triển bền vững, việc phát triển nông nghiệp hữu cơ nhằm đưa ra thị trường các sản phẩm nông sản đạt tiêu chuẩn hữu cơ và bổ dưỡng cho người tiêu dùng là một đòi hỏi khắt khe và cũng đang là một xu thế tiêu dùng mới.
Theo các chuyên gia, sản xuất nông nghiệp hữu cơ rất khó, đòi hỏi quy trình nghiêm ngặt với các vòng dinh dưỡng trong sản xuất được khép kín tối đa, nhằm tạo dựng độ màu mỡ, phì nhiêu của đất một cách bền vững. Sản xuất hữu cơ không chỉ bảo đảm môi trường sản xuất không bị ô nhiễm từ bên ngoài mà còn có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, không gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Trong khi đó, phần lớn người dân đang sản xuất quy mô nhỏ.
Cũng theo ông Hà Phúc Mịch, để có được những nông trại, diện tích rau hữu cơ luôn ổn định và để tạo được nguồn thực phẩm không chỉ an toàn mà còn có giá trị dinh dưỡng cao, cây trồng hữu cơ cần được sinh trưởng và phát triển trong một hệ thống canh tác mà ở đó không có sự tác động bởi hóa chất, hệ sinh thái đồng ruộng được điều hòa ổn định. “Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, tổ chức tập huấn kỹ thuật, tiêm phòng vắcxin, xúc tiến thương mại rất kịp thời mới đưa nông nghiệp hữu cơ phát triển”, ông Mịch cho biết.