Mở tư duy hướng biển
- Thứ ba - 03/03/2015 20:47
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Nhỏ lẻ và manh mún
Theo kết quả điều tra nguồn lợi hải sản (giai đoạn 2011 - 2013) của Viện Nghiên cứu Hải sản, trữ lượng cá trong vùng biển Việt Nam 4,2 triệu tấn. Tuy nhiên, khai thác thủy sản Việt Nam vẫn chưa tương xứng tiềm năng.
Ngành khai thác hải sản nước ta về cơ bản mới là đánh bắt cá ven bờ, cả đánh bắt lẫn chế biến còn rất thủ công, chưa đủ đẩy ngành thủy sản lên tầm vĩ mô, mang tính công nghiệp cao...Hầu hết các tàu đánh bắt có công suất nhỏ, năng suất thấp, mới chỉ khai thác ở độ sâu dưới 50 m, trong khi vùng biển Việt Nam nhiều vùng có độ sâu lớn. Đây là một trong những hạn chế cản trở phát triển, dẫn đến tình trạng lạm khai thác ven bờ.
Một khó khăn khác là vốn, nhất là vốn lưu động và vốn đầu tư cho công nghệ, bởi thủy sản là mặt hàng giá trị cao, cần vốn đầu tư lớn, trong khi sức đầu tư của hầu hết ngư dân ta còn nhỏ lẻ, manh mún, không trường vốn cho cơ sở hạ tầng, kho bảo quản, làm lạnh...
Bên cạnh đó, lao động nghề cá chưa đáp ứng được yêu cầu đối với ngành công nghiệp khai thác. Người lao động phần lớn được đào tạo kiểu "cha truyền con nối", ít tiếp cận kiến thức hiện đại. Đội ngũ thuyền trưởng, máy trưởng hầu hết ít được đào tạo chính quy, thiếu kiến thức cơ bản để có thể sử dụng thiết bị hiện đại; thiếu kiến thức luật hàng hải để khai thác ở vùng biển quốc tế.
Việc bảo quản sau thu hoạch trên tàu chủ yếu bằng nước đá và ướp muối theo phương pháp truyền thống, chất lượng sản phẩm thấp, giá bán không cao. Mức độ trang bị thiết bị hiện đại và đổi mới thiết bị còn thấp và chậm, chỉ đạt 1,09 - 3,98%. Mức độ công nghiệp hóa chưa cao; đổi mới chậm.
Sản phẩm sau khai thác vẫn chưa được nâng cao - Ảnh: Quang Quyết
Phát triển nghề cá bền vững
<p margin-bottom:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:normal"="" style="padding: 0px 0px 13px; margin: 0px; border: 0px; line-height: 1.6em; text-align: justify; color: rgb(17, 17, 17); font-family: Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 13px;">Chiến lược phát triển ngành thủy sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030, đề ra một số giải pháp đối với khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản; trong đó, nhấn mạnh việc tập trung nghiên cứu điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường phục vụ khai thác hải sản; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hoạt động nghiên cứu nguồn lợi và tổ chức khai thác hải sản.Cùng đó, tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản, trên cơ sở cơ cấu lại tàu thuyền, nghề nghiệp phù hợp vùng, tuyến biển, môi trường tự nhiên, nguồn lợi hải sản; xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để định hướng khai thác, bảo tồn, phát triển nguồn lợi hải sản, tăng cường sự tham gia của cộng đồng; đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ trong khai thác thủy sản, bảo quản sản phẩm để giảm tổn thất sau thu hoạch; củng cố, phát triển các mô hình khai thác hải sản (tổ đội sản xuất, hợp tác xã, kinh tế tập thể, liên doanh, liên kết, hậu cần dịch vụ tiêu thụ sản phẩm trên biển); đổi mới xây dựng các hợp tác xã, liên minh hợp tác xã nghề cá thật sự vì lợi ích ngư dân, bảo vệ môi trường sinh thái, gắn kết cộng đồng, phát triển và ổn định xã hội; hình thành một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn đủ mạnh để khai thác hải sản xa bờ và hợp tác khai thác viễn dương với các nước trong khu vực; hiện đại hóa công tác quản lý nghề cá trên biển... Tăng cường bảo vệ, hỗ trợ đảm bảo an toàn cho ngư dân; xây dựng lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ nguồn lợi gắn với bảo vệ ngư dân và quốc phòng an ninh trên biển và hải đảo; củng cố, phát triển ngành cơ khí đóng, sửa tàu cá, có lộ trình phù hợp chuyển nhanh tàu cá vỏ gỗ sang vỏ thép, vật liệu mới...Những nội dung trên có tính định hướng xây dựng nghề cá xa bờ bền vững và là cơ sở đề ra chính sách phát triển nghề cá xa bờ hiệu quả sau này.
Chính sách ưu đãi
Ngày 7/7/2014, Chính phủ ban hành Nghị định 67/2014/NĐ-CP; trong đó quy định chính sách đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, ưu đãi thuế và một số chính sách khác, áp dụng đối với tổ chức, cá nhân hoạt động thủy sản; tổ chức, cá nhân (chủ tàu) đặt hàng đóng mới, nâng cấp tàu khai thác thủy sản. Theo chính sách này, chủ tàu được vay ngân hàng tối đa 95% giá trị đầu tư đóng mới, nâng cấp; thời hạn vay tới 11 năm; lãi suất phải trả thấp nhất 1%/năm, cao nhất chỉ 3%/năm.
Bên cạnh đó, dịch vụ hậu cần nghề cá được quan tâm, chú trọng đầu tư thích đáng. Giai đoạn 2015 - 2020, Bộ NN&PTNT bố trí vốn đầu tư xây dựng 5 trung tâm nghề cá lớn, gắn với ngư trường trọng điểm; trọng tâm là cảng cá và đồng bộ, hiện đại hóa dịch vụ hậu cần nghề cá, gắn kết các khâu trong chuỗi giá trị thủy sản, tạo đột phá, trở thành cực thu hút đầu tư và tăng trưởng kinh tế thủy sản.
Bộ NN&PTNT đang chỉ đạo các địa phương có biển triển khai thực hiện Nghị định 67. Bộ sẽ bố trí nguồn vốn đầu tư thực hiện các chương trình, dự án hằng năm tăng tối thiểu 2 lần so với giai đoạn 2011 - 2014, nhằm đẩy nhanh, hoàn thành dứt điểm các công trình, dự án theo quy định. Đồng thời, rà soát, kết hợp đồng bộ quy hoạch các khu neo đậu tránh trú bão với quy hoạch cảng cá, bến cá, trình Thủ tướng phê duyệt trong năm 2015. Cùng đó, Bộ tập trung xây dựng, nâng cấp công trình tại các đảo và một số tỉnh duyên hải Nam Trung bộ; kiện toàn ban quản lý cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão.
Đề án Tổ chức sản xuất cá ngừ theo chuỗi giá trị đang được thí điểm tại ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; tập trung vào các nhiệm vụ: quản lý quy hoạch nghề cá ngừ đại dương; phát triển đội tàu khai thác cá ngừ theo hướng hiện đại; thí điểm một số mô hình liên kết theo chuỗi giá trị; xây dựng đồng bộ cơ sở dịch vụ hậu cần; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
>> Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám, Đề án Tổ chức sản xuất cá ngừ theo chuỗi giá trị được coi là khâu đột phá để tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững; phát triển khai thác cá ngừ đại dương sẽ góp phần thúc đẩy hiện đại hóa tàu cá và công nghệ khai thác xa bờ, bảo quản sản phẩm, tạo tiền đề phát triển khai thác xa bờ. |