Nhiều giải pháp đồng bộ xây dựng vùng nguyên liệu nông sản phục vụ xuất khẩu
- Thứ năm - 22/11/2018 08:04
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Thực hiện kế hoạch xuất khẩu nông sản năm 2018 của tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ các tổ chức, cá nhân áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt. Phối hợp với Công ty VinECo triển khai chương trình đồng hành hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp Việt. Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn các doanh nghiệp, các HTX, hộ gia đình tổ chức sản xuất, chăm sóc theo quy trình kỹ thuật, đảm bảo chất lượng nông sản đủ tiêu chuẩn xuất khẩu; hướng dẫn ghi chép, kiểm soát tài liệu và hồ sơ, quy trình sản xuất cho từng cây trồng để đảm bảo sản phẩm an toàn thực phẩm, an toàn môi trường, an toàn cho người lao động và truy xuất được nguồn gốc. Chỉ đạo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật chủ trì tổ chức các lớp tập huấn kiến thức an toàn thực phẩm; sử dụng các loại phân bón đúng kỹ thuật đạt hiệu quả cao đảm bảo an toàn thực phẩm và hạn chế gây ô nhiễm môi trường; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4 đúng, thu gom bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng để tiêu hủy đúng quy định; hướng dẫn cho các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất chuỗi rau, quả áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP. Xây dựng bộ thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng để khuyến cáo người sản xuất sử dụng trong các mã vùng trồng phục vụ công tác xuất khẩu.
Công tác kiểm tra, giám sát sản xuất được đặc biệt quan tâm. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tích cực phối hợp với tổ chức cấp chứng nhận như: Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu I; Trung tâm Chất lượng nông lâm thủy sản vùng I (Cục Quản lý chất lượng nông lâm và thủy sản)... kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình sản xuất, ghi chép nhật ký của các tổ chức, cá nhân được cấp chứng nhận theo quy định. Định kỳ 1 lần/tháng tổ chức kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất, sổ ghi chép nhật ký trong mã số vùng trồng, kiểm tra về vệ sinh, quản lý dịch hại trong mã số vùng sản xuất, kiểm tra việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo đúng danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng, thủy sản, thuốc BVTV, thuốc thủy sản, vật tư nông nghiệp.
Niên vụ sản xuất năm nay, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ xuất khẩu với tổng diện tích 9.490 ha cây trồng các loại được cấp chứng nhận VietGAP và tương đương tại các huyện, thành phố, gồm: Gần 60 ha xoài được cấp giấy chứng nhận VietGAP và 29,5 ha xoài được cấp mã vùng trồng xuất khẩu; 66 ha nhãn được cấp chứng nhận VietGAP và 126 ha nhãn được mã vùng trồng xuất khẩu; gần 29 ha chanh leo được cấp chứng nhận VietGAP, GlobalGAP; 105 ha mận; 13 ha bơ; 5,2 ha thanh long; 115 ha chè và 83,5 ha rau được chứng nhận VietGAP; 9.000 ha cà phê đạt tiêu chuẩn 4C, UTZ...
Theo chủ trương của tỉnh, các mặt hàng nông sản xuất khẩu năm 2019, gồm: Đường, cà phê, chè, quả tươi và sản phẩm chế biến từ quả, tinh bột sắn, rau các loại, cá tầm... Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tham mưu, trình UBND tỉnh xem xét, quyết định vùng sản xuất nông sản phục vụ xuất khẩu cụ thể về diện tích, sản lượng và gắn với đơn vị sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tổng diện tích cây trồng áp dụng quy trình sản xuất VietGAP hoặc các tiêu chuẩn khác khoảng 19.960 ha, gồm: 8.800 ha cây ăn quả các loại, 606 ha chè và 255 ha rau áp dụng quy trình sản xuất VietGAP; 10.300 ha cà phê áp dụng quy trình sản xuất 4C, UTZ hoặc GAP; sản lượng cá tầm sản xuất áp dụng VietGAP khoảng 400 tấn. Tổng diện tích sản xuất nông sản theo hướng hữu cơ hoặc hữu cơ khoảng 2.915 ha, gồm: 2.400 ha cây ăn quả; 150 ha cây cà phê; 250 ha chè; 15 ha rau; 100 ha lúa.
Với các giải pháp đồng bộ và sự nỗ lực của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc xây dựng và quản lý chặt chẽ vùng nguyên liệu nông sản sẽ đảm bảo các tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường trên thế giới, góp phần đưa nông sản Sơn La vươn ra các thị trường lớn, nâng cao sức cạnh tranh và giá trị sản phẩm, tăng thu nhập cho người nông dân.