Quảng Ngãi: Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới
- Thứ sáu - 23/09/2016 06:48
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Nông nghiệp từng bước nâng hiệu quả
Ngành Nông nghiệp và PTNT Quảng Ngãi đã và đang tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới quy hoạch các loại cây trồng chủ lực như lúa, mía, mì (sắn); cơ cấu lại các loại cây trồng chủ lực; xây dựng kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây màu, cây làm thức ăn chăn nuôi có hiệu quả cao hơn; thực hiện xây dựng cánh đồng lớn, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, đưa cơ giới hóa vào sản xuất... nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa tập trung, hiệu quả cao, giá thành hạ.
Bên cạnh việc tiếp tục khảo nghiệm sản xuất thử các giống lúa mới, các giống lúa có triển vọng, Quảng Ngãi đã đưa vào sản xuất đại trà 06 giống mì, 08 giống mía, 07 giống ngô, 04 giống lạc; bình tuyển công nhận 03 giống cây ăn quả đầu dòng, sử dụng các giống lúa có thời gian sinh trưởng trung, ngắn ngày nhằm rút ngắn thời gian sinh trưởng nhưng có năng suất tương đương với nhóm giống dài ngày.
Về chuyển đổi cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả, 3 năm qua, toàn tỉnh đã thực hiện được 3.569ha. Các loại cây trồng chuyển đổi chủ yếu là ngô, rau, đậu các loại, cỏ, mía, mì... Qua tính toán cho thấy, giá trị sau thu hoạch cây trồng cạn sau chuyển đổi cao hơn nhiều so với trồng lúa, điển hình như ngô (tăng 9,4%), lạc (tăng 32,2%), đậu xanh (tăng 5,8%), đặc biệt là cây ớt cao gấp 3,8 lần so với trồng lúa trên cùng chân đất.
Giá trị sau thu hoạch trên 01ha canh tác có xu hướng tăng nhanh qua các năm: năm 2013 là 55,8 triệu đồng, năm 2014 là 60,8 triệu đồng, năm 2015 là 71,7 triệu đồng và ước năm 2016 đạt trên 70 triệu đồng, tăng bình quân qua các năm là 5,8%/năm.
Đàn gia súc, gia cầm tại thời điểm tháng 01/4/2016 (so với năm 01/4/2013): đàn trâu 66.921 con, tăng 8,81%; đàn bò 280.565 con (tăng 2,5%), đàn bò lai chiếm trên 60% (tăng 5,1%); đàn heo 456.545 con, giảm 1,75%; đàn gia cầm 4,37 triệu con, tăng 3,6%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng 41.511tấn, tăng 21,2%
Giá trị sản xuất trong chăn nuôi ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, năm 2013 chiếm 34,9% thì đến năm 2016 ước chiếm khoảng 40,12%. Nhìn chung, đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn Quảng Ngãi phát triển ổn định, bước đầu xác định được sản phẩm chăn nuôi hàng hóa chủ lực, đó là bò thịt và trâu thịt.
Tiếp tục thực hiện Dự án cải tiến, nâng cao chất lượng giống bò thịt tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2014 - 2018. Đến nay, tỷ lệ bò lai trên địa bàn tỉnh đã đạt trên 60% so với tổng đàn bò, vượt chỉ tiêu Đề án đặt ra. Về kiểm soát giết mổ, hiện trên địa bàn tỉnh có 441 cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, trong đó có 02 cơ sở giết mổ tập trung có đăng ký kinh doanh và 439 cơ sở giết mổ nhỏ lẻ không có đăng ký kinh doanh. Các cơ sở giết mổ này đều được cơ quan thú y kiểm soát giết mổ thường xuyên, đúng quy định.
Điểm nhấn thủy sản
Khai thác thủy sản là thế mạnh của kinh tế Quảng Ngãi. Những năm qua, khai thác thủy sản chuyển dịch theo hướng tăng khai thác xa bờ, giảm khai thác gần bờ, giảm dần tàu cá có công suất nhỏ dưới 90CV, tăng dần tàu có công suất 400CV trở lên. Ước cuối năm 2016, toàn tỉnh có 5.568 tàu cá, tăng 335 chiếc so với 2013. Tổng công suất tàu cá năm 2016 ước đạt 1.218.000CV, tăng 54,4% so với năm 2013. Năm 2016, số lượng tàu cá có công suất dưới 90CV giảm 693 chiếc so với năm 2013; ngược lại, tàu cá có công suất từ 400CV trở lên tăng lên 875 chiếc. Nghề lưới kéo năm 2013 chiếm 31,6%, tăng lên 33,2% vào năm 2016; tỷ lệ nghề câu, nghề lưới vây tăng không đáng kể. Sản lượng thủy sản khai thác ước đến cuối năm 2016 đạt 170.400 tấn, tăng bình quân 3,9%/năm.
Về đóng mới tàu cá, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phân bổ cho Quảng Ngãi 189 chiếc. Đến nay đã có 09 tàu cá vỏ thép, trong đó có 03 tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ. Ngành đã hỗ trợ ngư dân sử dụng máy dò ngang, máy ra đa, máy lọc nước biển thành nước ngọt, phát triển các nghề mới như lưới chụp, lưới rê bùng nhùng (rê xù), nghề câu cá ngừ đại dương, lồng bẫy. Khuyến khích ngư dân chuyển từ các nghề khai thác ven bờ như lưới kéo, pha xúc sang các nghề khai thác xa bờ như lưới rê, nghề câu; áp dụng công nghệ sản xuất đá vảy, nước đá sệt từ nước biển, công nghệ bọc cách nhiệt hầm bảo quản bằng vật liệu PU... để bảo quản, nâng cao chất lượng sản phẩm sau khai thác.
Diện tích nuôi thủy sản năm 2016 ước đạt 1.440ha, tăng 75ha so với năm 2013, trong đó nuôi nước lợ khoảng 800ha, nuôi nước ngọt khoảng 890ha. Sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 6.400 tấn, tăng 0,4% so với năm 2013, trong đó tôm nước lợ 4.600 tấn, cá nước ngọt 1.500 tấn và thủy sản khác 250 tấn.
Ngoài ra, ngành còn phát triển các mô hình nuôi biển, như: tôm hùm, hàu Thái Bình Dương và một số loài cá biển. Sản lượng nuôi biển đạt 250 tấn (gồm 25 tấn tôm hùm và 225 tấn cá, hàu Thái Bình Dương), tăng 245 tấn so với năm 2013.
Đến nay, Quảng Ngãi đã thành lập 08 HTX dịch vụ khai thác hải sản xa bờ và củng cố, phát triển 306 tổ đội ngư dân đoàn kết sản xuất trên biển dựa trên trên nguyên tắc “ba cùng” (cùng địa phương, cùng nghề khai thác, cùng ngư trường khai thác) để hỗ trợ nhau trong quá trình khai thác trên biển.
Chính sách tín dụng đóng mới, nâng cấp tàu cá, tổng số tàu được UBND tỉnh Quảng Ngãi phê duyệt 06 đợt là 103 chiếc, UBND tỉnh đã quyết định xóa tên 25 chiếc, số được phê duyệt còn hiệu lực là 78 chiếc, trong đó có 29 vỏ thép, 43 vỏ gỗ, 06 vỏ composite; nâng cấp 18 chiếc. Cụ thể, số tàu đã được các chi nhánh NHTM ký hợp đồng tín dụng và thông báo đồng ý ký hợp đồng tín dụng là 35 chiếc (12 vỏ thép, 23 tàu khai thác vỏ gỗ). Riêng 18 tàu cá nâng cấp chưa triển khai.
Số tàu cá đủ điều kiện tham gia khai thác hải sản trên các vùng biển xa năm 2016 ước đạt 1.100 tàu. Kinh phí đã được phê duyệt và giải ngân tính từ năm 2011 đến nay đã hỗ trợ 26 đợt với tổng số tiền 542,8 tỷ đồng, ước tổng số tiền hỗ trợ đến cuối năm 2016 đạt trên 750 tỷ đồng
Ngư dân đã mạnh dạn đầu tư đóng mới, nâng cấp tàu cá, áp dụng tiến bộ công nghệ trong khai thác, số lượng tàu thuyền đánh bắt xa bờ ngày càng hiện đại.
Tái cơ cấu gắn với xây dựng nông thôn mới
Quảng Ngãi chú trọng xây dựng cánh đồng lớn sản xuất lúa.
Hiện nay, trên địa bàn Quảng Ngãi có trên 700 công trình thủy lợi phục vụ tưới, bao gồm 121 hồ chứa nước; 454 đập dâng, 05 đập ngăn mặn và 120 trạm bơm với tổng năng lực tưới theo thiết kế là 89.358ha; năng lực khai thác tưới thực tế của các công trình là 57.4000ha, đạt 64,2% so với năng lực tưới thiết kế. Đảm bảo tưới chủ động cho 100% diện tích lúa 2 vụ, cây công nghiệp ngắn ngày và cây rau màu với tần suất đảm bảo tưới lên tới 85%; cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp với mức đảm bảo trên 90%; tạo nguồn và cấp nước cho diện tích nuôi trồng thủy sản và sản xuất muối.
Hiện nay, các công trình hạ tầng thủy sản như cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá trên địa bàn Quảng Ngãi có tổng năng lực thiết kế cho tàu thuyền neo đậu tại các cảng là 1.750 chiếc, trong đó: Cảng neo trú tàu thuyền Tịnh Hòa 350 chiếc; Cảng neo trú tàu thuyền Lý Sơn 500 chiếc, Cảng neo trú tàu thuyền Mỹ Á 400 chiếc, Cảng cá Sa Huỳnh 500 chiếc. Nhiều hạng mục dịch vụ hậu cần nghề cá như: trạm xăng dầu, sản xuất đá lạnh, cơ sở thu mua, sơ chế thủy sản; cơ sở đóng sửa tàu thuyền; cơ sở sửa chữa cơ khí; cơ sở cung cấp lương thực, nhu yếu phẩm... đã được được xây dựng đi vào hoạt động, tạo thuận lợi cho các tàu cá khai thác và tiêu thụ sản phẩm.
Tổng kinh phí hỗ trợ từ 3 năm qua (NSTW) là 16.105 triệu đồng, thực hiện 12 mô hình, gồm nuôi bò cái lai sinh sản, bò vỗ béo; nuôi gà thịt; sản xuất, hỗ trợ giống lúa lai; cải tạo vườn tạp, trồng cây ăn quả; mô hình trồng nấm ăn và nấm dược liệu; trồng thanh long ruột đỏ; trồng tỏi theo hướng an toàn; xây dựng cánh đồng mẫu; hỗ trợ máy băm đất, máy gặt đập liên hợp; máy phun thuốc khử trùng tiêu độc... Về thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, đến 30/6/2016, Quảng Ngãi có 11 xã đạt chuẩn NTM. Ước đến cuối năm 2016, toàn tỉnh sẽ có 26 xã đạt tiêu chí NTM.
UBND tỉnh Quảng Ngãi vừa tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tại hội nghị, các đại biểu đã chỉ ra nhiều điểm hạn chế, nguyên nhân, các cơ chế chính sách chưa sát với thực tế, nhất là công tác quy hoạch chưa gắn kết với đầu ra sản phẩn của nông dân…
Theo Hải Yến/kinhtenongthon.com.vn