Thủ tướng: Phát triển vùng không được mang tính chủ quan, áp đặt, hay là con số cộng
- Thứ hai - 06/05/2019 11:10
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Nêu kiến nghị tại Hội nghị, ông Nguyễn Thành Phong, Chủ tịch UBND TPHCM, Chủ tịch Hội đồng vùng KTTĐ phía nam cho rằng, Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định về vùng kinh tế động lực, giúp cho hoạt động vùng ngày càng hiệu quả. “Để duy trì và nâng cao hiệu quả của việc liên kết là phải tạo ra một “tài sản chung” của các địa phương”, ông Nguyễn Thành Phong kiến nghị cho phép thành lập Quỹ Hội đồng vùng được hình thành từ một phần kinh phí do Trung ương cấp, một phần từ đóng góp của các địa phương và các nguồn khác.
Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Đinh Quốc Thái cho rằng, cần ưu tiên quy hoạch đầu tư các công trình hạ tầng mang tính liên kết vùng, đặc biệt là các tuyến cao tốc, hệ thống đường vành đai TPHCM, hệ thống cảng - logistics. Một số ý kiến kiến nghị cũng tập trung vào việc phát triển các tuyến giao thông kết nối vùng như xây dựng tuyến đường sắt chuyên dụng vận chuyển hàng hóa cho cả vùng… TS. Trần Du Lịch cho rằng, đây là tiền đề giải quyết 2 vấn đề: Liên kết phát triển kinh tế và phát triển chuỗi vùng đô thị, một động lực của tăng trưởng. Phát triển đô thị mà không có giao thông kết nối thì thất bại.
Nhất trí với ý kiến Chủ tịch UBND TPHCM về lập Quỹ Hội đồng vùng, TS. Trần Du Lịch cho rằng, cần có bộ phận nghiên cứu chuyên trách hay tổ tư vấn cho lãnh đạo vùng. Cùng quan điểm, TS. Trần Đình Thiên đề nghị, để tiếng nói của tổ tư vấn này có trọng lượng hơn thì tổ có thể tư vấn cho cả lãnh đạo Chính phủ. TS. Trần Đình Thiên góp ý, cần có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp kết nối vùng, một lực lượng kết nối quan trọng.
Một số ý kiến cho rằng, các địa phương trong vùng cần chọn các chương trình liên kết và ký kết thỏa thuận hợp tác, đóng góp kinh phí để triển khai như dự án xây dựng đường giao thông; cần có cơ chế phân công hợp tác trong vùng, cùng ngồi lại với nhau để thống nhất các dự án nào cần ưu tiên đầu tư trước.
Ghi nhận các ý kiến, Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ tổng hợp để soạn thảo Chỉ thị của Thủ tướng về phát triển vùng KTTĐ phía nam, làm cơ sở tổ chức thực hiện, “chứ không phải xong hội nghị rồi thôi”.
Thủ tướng nhấn mạnh, đây là vùng kinh tế năng động bậc nhất của Việt Nam, là trung tâm thu hút đầu tư FDI lớn nhất cả nước. Đây cũng là nơi khởi nguồn cho những đột phá kinh doanh thời lúc bắt đầu mở cửa đất nước.
Nổi bật nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành Trung ương và các địa phương vùng KTTĐ Nam Bộ trong lĩnh vực giao thông (nhiều dự án mang tính nội vùng, liên vùng về giao thông đã được triển khai và đưa vào khai thác như dự án cao tốc TPHCM - Trung Lương, TPHCM - Long Thành - Dầu Giây).
Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng, những lợi thế của vùng chưa được phát huy hết nhằm tạo ra những động lực mới cho tăng trưởng. Kết cấu hạ tầng chưa tương xứng, chất lượng phát triển đô thị còn thấp; bị ảnh hưởng lớn bởi biến đổi khí hậu.
Cơ chế, chính sách cho phát triển vùng còn chưa được hoàn thiện, thiếu đột phá. Còn thiếu sự liên kết vùng, vẫn còn tình trạng "mạnh ai nấy làm", dẫn tới không thể liên kết mạnh mẽ được, công tác phối hợp giữa các địa phương trong vùng còn rất hạn chế;
Là một vùng kinh tế động lực, nhưng chỉ số PCI, PAPI trong những năm gần đây còn chưa cao, môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế, đang là rào cản, cản trở sự phát triển của vùng.
Hình thức cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành trong vùng KTTĐ Nam Bộ vẫn mang nặng tính tự phát và chỉ dừng lại ở mức cam kết các thỏa thuận giữa lãnh đạo các địa phương; công việc triển khai mang tính toàn vùng còn ít. Sự phát triển lớn mạnh của vùng là do nỗ lực của các tỉnh, thành phố chứ không phải do việc thành lập vùng mà có.
Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Thực hiện sứ mệnh đàu tàu dẫn dắt
Thủ tướng nêu rõ, muốn vùng KTTĐ phía nam phát triển nhanh, bền vững, là đầu tàu kinh tế của cả nước, thì phải thống nhất quan điểm phát triển vùng là phát triển mang tính hữu cơ, liên kết giữa các tỉnh, thành phố trong vùng thành một hệ thống thống nhất, không được mang tính chủ quan, áp đặt, hay là con số cộng của sự phát triển các tỉnh, thành phố thuộc vùng. Phải có cơ chế điều phối hoạt động của vùng đủ mạnh, không bị ràng buộc, hay chia cắt bởi địa giới hành chính.
Vùng KTTĐ phía nam đã được gọi là vùng trọng điểm thì phải có cơ chế chính sách hoạt động đặc thù cho toàn vùng để bảo đảm sự phát triển thuận lợi, thực hiện sứ mệnh đàu tàu dẫn dắt các vùng kinh tế khác.
Bên cạnh đó, các tỉnh, thành phố trong vùng phải rà lại, chỉ đạo quyết liệt từng chỉ tiêu, có biện pháp đồng bộ để bố trí đội ngũ cán bộ xứng tầm trong triển khai thực hiện, nhất là những mũi quan trọng.
Đồng thời, đẩy mạnh sự phối hợp gắn kết giữa các địa phương trong và ngoài vùng trong quá trình xúc tiến đầu tư, huy động và phân bổ nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH; đào tạo, thu hút và tạo việc làm; nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; xây dựng cơ sở dữ liệu KT-XH cho vùng phục vụ cho công tác dự báo và phối hợp bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thực hiện nghiêm việc đấu giá quyền sử dụng đất, nhất là tại các khu đô thị để tạo nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo nền tảng thúc đẩy liên kết vùng, phát triển KT-XH và tạo thuận lợi nhất cho người dân.
Tạo điều kiện về không gian, nguồn lực, cơ hội cho khu vực tư nhân phát triển thuận lợi hơn; bảo đảm kinh tế tư nhân bình đẳng trước pháp luật, trong cạnh tranh, phân bổ nguồn lực với các thành phần kinh tế khác. Tôn vinh các dự án và lên án đấu tranh đối với các doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh; tạo cơ hội tiếp cận nguồn lực, cắt giảm chi phí kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm... làm cho môi trường thông thoáng, minh bạch, thuận lợi.
Đào tạo nguồn nhân lực bảo đảm chất lượng và cơ cấu ngành hợp lý. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tạo cơ hội cho hộ nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp về đất đai, tín dụng, dạy nghề; hỗ trợ, tạo điều kiện cho các hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập để thoát nghèo bền vững. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân.
Kiểm soát hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản; thiết lập hệ thống quan trắc chất lượng nước; xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước thải, hệ thống thu gom và xử lý chất thải rắn, nhất là chất thải nguy hại tại các đô thị, các khu công nghiệp.
Tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư và các hạng mục dự án sân bay quốc tế Long Thành đã được giao. Thủ tướng nêu rõ, phấn đấu trong năm 2020 phải khởi công công trình này.
Giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, Thủ tướng đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng bảo đảm chất lượng theo hướng tích hợp các quy hoạch quy định tại Luật Quy hoạch.
Đối với Bộ Tài chính, xây dựng cơ chế, chính sách tạo nguồn thu để lại cho các tỉnh, thành phố thuộc vùng KTTĐ phía nam. Cần nghiên cứu tỷ lệ điều tiết hợp lý cho ngân sách địa phương bảo đảm tương ứng với vai trò đóng góp của ngân sách của từng tỉnh, thành phố trong vùng đối với ngân sách Trung ương, tạo nguồn lực cho các địa phương trong vùng tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Xem xét, quyết định việc cho các địa phương sử dụng ngân quỹ Nhà nước tạm thời nhàn rỗi để giải phóng mặt bằng xây dựng các khu đô thị ven biển theo đúng quy định pháp luật về ngân sách Nhà nước.
Bộ Giao thông vận tải tập trung nguồn lực của Nhà nước để đầu tư, đồng bộ hóa hạ tầng KT-XH, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, có tác dụng lan tỏa, tạo ra liên kết vùng (các công trình trên trục hướng tâm, các vành đai, các đường kết nối các cảng biển và hành lang vận tải quốc tế). Phối hợp với các địa phương kêu gọi các nhà đầu tư quan tâm đầu tư theo hình thức PPP, tranh thủ nguồn vốn ODA và các nguồn vốn hợp pháp khác để phát triển kết cấu hạ tầng. Kết hợp đầu tư hạ tầng giao thông với phát triển đô thị bảo đảm công khai, minh bạch để tăng tính hấp dẫn với các nhà đầu tư.
Thủ tướng nhắc lại yêu cầu phải khánh thành đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận – Cần Thơ trong năm 2021.
Đối với Bộ Công Thương, ưu tiên phát triển mạng lưới trung tâm logistics vùng KTTĐ phía nam là nơi có lợi thế về vị trí địa lý, gần nguồn cung cấp hàng hóa như khu công nghiệp, hệ thống cảng, gần khách hàng tiêu thụ.
Đối với Bộ Khoa học và Công nghệ, hỗ trợ xây dựng các trung tâm ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong trường đại học, doanh nghiệp, KCN trên địa bàn tỉnh, thành phố trong vùng để từ đó là hạt nhân của hoạt động ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hỗ trợ các tỉnh, thành phố trong vùng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao./.
Đức Tuân
chinhphu.vn