Thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết của Trung ương 'về nông nghiệp, nông dân, nông thôn'
- Thứ tư - 19/03/2014 10:18
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
“Nghị quyết Trung ương 7 khóa X “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” được ban hành ngày 5/8/2008. Đến nay, sau tròn 5 năm Nghị quyết đi vào thực tiễn cuộc sống, Trung ương quyết định sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện để xác định đúng phương hướng, giải pháp tiếp tục triển khai trong thời gian tới. Phát huy sức lan tỏa của Nghị quyết, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hiệu quả, phát triển toàn diện, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân một cách vững chắc vừa là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và thiết yếu trước mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Bước tiến mới về nhận thức và hành động
Nghị quyết Trung ương là bước tiến mới trong kế thừa tư duy và đường lối đổi mới thể chế kinh tế mở đầu từ Đại hội VI, là lần đầu tiên Đảng ta đề ra một hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp toàn diện, cơ bản cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và giai cấp nông dân nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn khẳng định tầm vóc to lớn và hệ trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Mốc son chính thức khởi đầu thời kỳ đổi mới được xác định là Đại hội VI của Đảng. Trước đó, những bước đi đầu tiên trong cải tiến cơ chế quản lý đã khởi nguồn từ nông nghiệp và nông dân, tạo tiền đề ra đời Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, về thay đổi cách chỉ đạo, tổ chức sản xuất, quản lý hợp tác xã nông nghiệp, đã đem lại niềm phấn khởi, khí thế mới và bước đầu giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn.
Trên cơ sở thành công của cơ chế khoán 100 (khoán đến nhóm và người lao động), ngày 15/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp, trong đó xác định rõ vai trò của kinh tế hộ, coi hộ gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất…
Tác dụng của cơ chế khoán 10 cùng với những thành tựu về thủy lợi, cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, thâm canh tăng năng suất, mở rộng diện tích đất canh tác ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nền nông nghiệp nước ta sang trang sử mới, đã khơi dậy sức mạnh dời non lấp biển của hàng triệu hộ gia đình, hàng chục triệu nông dân - lực lượng hùng hậu nhất đi theo Đảng, đóng góp vô cùng to lớn vào thành công của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước trước đây và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay…
Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh… Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà (thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các điền chủ và nông gia ngày 14/4/1946).
Nhắc lại những điều nêu trên để càng thấy rõ hơn rằng: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã có những bước chuyển biến lớn từ hơn 30 năm qua và vẫn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong hàng trăm năm tới.
Trên cơ sở nhìn lại hơn 20 năm đổi mới và phân tích thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ năm 2000 đến 2008, Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) đã tập trung trí tuệ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ và nhất trí thông qua Nghị quyết “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Nghị quyết đã thể hiện tinh thần làm việc nghiêm túc, trách nhiệm và phương pháp luận khoa học, thực tiễn, toàn diện của Trung ương thông qua việc nêu rõ: Về thực trạng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn với năm thành tựu và năm yếu kém, khuyết điểm; về quan điểm, mục tiêu, giải pháp với bốn quan điểm, ba mục tiêu tổng quát, sáu mục tiêu cụ thể và tám nhóm chủ trương, giải pháp cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt.
Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và việc tổ chức triển khai trong 5 năm vừa qua là một phần tài sản mới bổ sung vào kho tàng lý luận và thực tiễn của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, nét đặc sắc là sự hòa quyện mật thiết, sự tương tác mạnh mẽ giữa lý luận và văn kiện của Đảng với phong trào của quần chúng.
Thực tế cho thấy rõ, Nghị quyết đã được nông dân cả nước phấn khởi đón nhận, tạo nên một phong trào sôi nổi, nhất là phong trào xây dựng nông thôn mới trên cả nước và phong trào đó đã làm cho Đảng, Nhà nước thấy rõ hơn nhiều điều cả về chủ trương, chính sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện công cuộc phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, trong đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong thời gian 5 năm qua, sự ra đời của Nghị quyết đã thúc đẩy mạnh mẽ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nông nghiệp đã trở thành trụ đỡ quan trọng cho nền kinh tế, đảm bảo cho sự ổn định của đất nước ta trong điều kiện khó khăn do khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu.
Thực tiễn cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trong thế giới tư bản đã phát lộ những trọng bệnh, như khủng hoảng nợ công, suy giảm niềm tin, gia tăng nạn thất nghiệp và sự bất an về chính trị, xã hội…, dẫn đến việc nhiều nước quay lại với các biện pháp bảo hộ, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và xuất nhập khẩu của những nước đang phát triển, trong đó có nước ta.
Tuy nhiên, may mắn là Việt Nam có nền nông nghiệp khá vững chắc, bước đầu được công nghiệp hóa, phát huy được vai trò trụ đỡ cho nền kinh tế, nhất là trong tình huống khó khăn chung của kinh tế thế giới. Nghị quyết của Trung ương không những có tầm chiến lược, mà còn kịp thời góp phần ứng phó thành công với những tác động tiêu cực của biến động kinh tế toàn cầu.
Mặc dù mới qua 5 năm triển khai, nhưng với sự đồng tâm nhất trí cao của toàn Đảng, toàn dân, sự quyết liệt chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở, việc thực hiện Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đạt được những bước tiến lớn, những kết quả quan trọng. Sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh mẽ và toàn diện, mặc dù dân số tăng, diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm, nhưng Việt Nam vẫn bảo đảm được an ninh lương thực và xuất khẩu gạo ngày càng tăng, vươn lên vị trí hàng đầu thế giới, bên cạnh đó là một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị trí cao trên thị trường quốc tế như cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản...
Nông nghiệp tăng trưởng đáng kể cả về năng suất, sản lượng và giá trị, nông sản và sản phẩm chế biến từ nông sản xuất khẩu tăng từ 12 lên 16 mặt hàng, có thị trường tiêu thụ tại 160 nước và vùng lãnh thổ, tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 115 tỷ USD (năm 2013 đạt 27,5 tỷ USD), tăng bình quân 15,2%/năm…
Từ đầu năm 2013 đến nay, mặc dù gặp nhiều khó khăn gay gắt, nhưng toàn ngành nông nghiệp vẫn duy trì được sự tăng trưởng, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống dân cư nông thôn. Kết quả đó vừa là thành tựu của công việc thường xuyên, vừa có sự đóng góp quan trọng của việc tiếp tục triển khai Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Việc thực hiện toàn diện các nội dung trong nghị quyết còn đem lại những bước tiến trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. Khoa học, công nghệ, cơ giới hóa nông nghiệp được áp dụng ngày càng rộng rãi đã góp phần tăng năng suất lao động, tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tổng năng lực tưới của hệ thống thủy lợi tăng 70.000 ha; đã mở mới, nâng cấp hàng chục ngàn km đường giao thông nông thôn, 98,3% số xã trong cả nước đã có đường ô tô về đến trung tâm xã; số xã được sử dụng điện đạt 99,89%, số hộ được sử dụng điện lưới đạt 97,3%; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin về cơ bản đã phát triển đến các xã vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm nhanh, hộ nghèo nông thôn còn 12,6%; tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 82%. Mạng lưới trường, lớp học ở vùng nông thôn tiếp tục phát triển. Hệ thống các trạm y tế trên cả nước cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, 99,51% số xã có trạm y tế, trên 86% số thôn, bản có nhân viên y tế. Xây dựng nông thôn mới, đời sống văn hóa ở nông thôn đang trở thành phong trào mạnh mẽ và thiết thực trên khắp cả nước, đến hết năm 2013, bình quân một xã đạt được 7,87 tiêu chí, nhiều mô hình nông thôn mới được phát triển, mở rộng trên các vùng của đất nước.
Điều hết sức quan trọng là Nghị quyết “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” gắn bó mật thiết với “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” (cũng là văn kiện hoàn chỉnh về các quan điểm, chủ trương, mục tiêu và giải pháp để Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, lần đầu tiên được thông qua và nhất trí ban hành tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa X). Việc thực hiện hai nghị quyết này tạo nên sức mạnh cộng hưởng, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển vững chắc giữa các ngành thủy sản, công nghiệp, hàng hải và dịch vụ…
Tuy nhiên, việc triển khai Nghị quyết Trung ương còn chưa đồng bộ xét cả về nội dung, giải pháp và địa bàn, kết quả đạt được còn chưa được như mong muốn, vai trò chủ thể của nông dân chưa được phát huy đầy đủ, chậm tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện trên thực tế. Một bộ phận cán bộ các cấp và nhân dân chưa đạt được mức nhận thức đầy đủ về những nội dung thiết yếu của nghị quyết quan trọng này.
Việc tổ chức thực hiện một số cơ chế chính sách đã ban hành chưa thật sự quyết liệt, còn lúng túng, thiếu đồng bộ, chậm ban hành văn bản hướng dẫn, hoặc do thiếu biện pháp huy động tổng thể nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực tương ứng, thiếu sự kiểm tra, giám sát và đôn đốc. Nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn từ phía Nhà nước tuy được tăng cao hơn, nhưng vẫn rất thấp so với yêu cầu thực tế. Phương thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún đã đưa sản xuất nông nghiệp tới ngưỡng, khó có thể tăng trưởng bền vững nếu không có giải pháp mới.
Các chính sách về thu mua tạm trữ, tiêu thụ nông sản, nhập khẩu muối, vật tư nông nghiệp, khai thác khoáng sản, khai thác, nuôi trồng thủy hải sản, bảo hiểm nông nghiệp chưa mang lại quyền lợi tương xứng cho nông dân. Chính sách tín dụng ưu đãi tuy đã có nhưng nông dân khó tiếp cận, dẫn đến thiếu vốn sản xuất kinh doanh; chính sách về đất đai còn bất cập, việc thu hồi đất nông nghiệp, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư chưa phù hợp, dẫn đến một bộ phận nông dân mất đất sản xuất, không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn, khiếu kiện kéo dài, phức tạp. Cơ chế, chính sách và sự hỗ trợ đối với ngư dân, diêm dân và đồng bào ở vùng ven biển, hải đảo còn yếu và chưa sát thực tiễn khách quan, nhất là lĩnh vực tín dụng ngân hàng và thuế…
Thực trạng nông dân hiện nay đa số vẫn là những hộ sản xuất quy mô nhỏ. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân tuy có bước cải thiện, nhưng nhìn chung còn nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nông dân băn khoăn, lo lắng về sự phát triển chưa vững chắc của nền kinh tế; về sự lên xuống thất thường của giá nông sản; về dịch bệnh ở cây trồng, vật nuôi; về ô nhiễm môi trường; về biến đổi khí hậu...
Mặt khác, nông thôn phát triển còn thiếu quy hoạch, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô và hội tụ sức mạnh để sản xuất hàng hóa có hiệu quả; mô hình quan hệ sản xuất thích hợp, mở đường cho phát triển sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn chưa đủ rõ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp kém, đời sống văn hóa phát triển không đều, có xu hướng bị lai tạp, môi trường nông thôn bị ô nhiễm, năng lực ứng phó với thiên tai còn nhiều hạn chế.
Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào xây dựng nông thôn mới chưa đủ mạnh. Sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền còn lớn, đang có xu hướng doãng dần khoảng cách... Chương trình xây dựng nông thôn mới thực hiện chậm, thiếu nguồn lực và thiếu cả sự chủ động, sáng tạo, nhiều khả năng không đạt mục tiêu 20% số xã đạt tiêu chí vào năm 2015.
Bước tiến mới về nhận thức và hành động
Nghị quyết Trung ương là bước tiến mới trong kế thừa tư duy và đường lối đổi mới thể chế kinh tế mở đầu từ Đại hội VI, là lần đầu tiên Đảng ta đề ra một hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp toàn diện, cơ bản cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và giai cấp nông dân nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn khẳng định tầm vóc to lớn và hệ trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Mốc son chính thức khởi đầu thời kỳ đổi mới được xác định là Đại hội VI của Đảng. Trước đó, những bước đi đầu tiên trong cải tiến cơ chế quản lý đã khởi nguồn từ nông nghiệp và nông dân, tạo tiền đề ra đời Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, về thay đổi cách chỉ đạo, tổ chức sản xuất, quản lý hợp tác xã nông nghiệp, đã đem lại niềm phấn khởi, khí thế mới và bước đầu giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn.
Trên cơ sở thành công của cơ chế khoán 100 (khoán đến nhóm và người lao động), ngày 15/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp, trong đó xác định rõ vai trò của kinh tế hộ, coi hộ gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất…
Tác dụng của cơ chế khoán 10 cùng với những thành tựu về thủy lợi, cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, thâm canh tăng năng suất, mở rộng diện tích đất canh tác ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nền nông nghiệp nước ta sang trang sử mới, đã khơi dậy sức mạnh dời non lấp biển của hàng triệu hộ gia đình, hàng chục triệu nông dân - lực lượng hùng hậu nhất đi theo Đảng, đóng góp vô cùng to lớn vào thành công của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước trước đây và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay…
Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh… Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà (thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các điền chủ và nông gia ngày 14/4/1946).
Nhắc lại những điều nêu trên để càng thấy rõ hơn rằng: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã có những bước chuyển biến lớn từ hơn 30 năm qua và vẫn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong hàng trăm năm tới.
Trên cơ sở nhìn lại hơn 20 năm đổi mới và phân tích thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ năm 2000 đến 2008, Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) đã tập trung trí tuệ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ và nhất trí thông qua Nghị quyết “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Nghị quyết đã thể hiện tinh thần làm việc nghiêm túc, trách nhiệm và phương pháp luận khoa học, thực tiễn, toàn diện của Trung ương thông qua việc nêu rõ: Về thực trạng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn với năm thành tựu và năm yếu kém, khuyết điểm; về quan điểm, mục tiêu, giải pháp với bốn quan điểm, ba mục tiêu tổng quát, sáu mục tiêu cụ thể và tám nhóm chủ trương, giải pháp cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt.
Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và việc tổ chức triển khai trong 5 năm vừa qua là một phần tài sản mới bổ sung vào kho tàng lý luận và thực tiễn của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, nét đặc sắc là sự hòa quyện mật thiết, sự tương tác mạnh mẽ giữa lý luận và văn kiện của Đảng với phong trào của quần chúng.
Thực tế cho thấy rõ, Nghị quyết đã được nông dân cả nước phấn khởi đón nhận, tạo nên một phong trào sôi nổi, nhất là phong trào xây dựng nông thôn mới trên cả nước và phong trào đó đã làm cho Đảng, Nhà nước thấy rõ hơn nhiều điều cả về chủ trương, chính sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện công cuộc phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, trong đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong thời gian 5 năm qua, sự ra đời của Nghị quyết đã thúc đẩy mạnh mẽ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nông nghiệp đã trở thành trụ đỡ quan trọng cho nền kinh tế, đảm bảo cho sự ổn định của đất nước ta trong điều kiện khó khăn do khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu.
Thực tiễn cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trong thế giới tư bản đã phát lộ những trọng bệnh, như khủng hoảng nợ công, suy giảm niềm tin, gia tăng nạn thất nghiệp và sự bất an về chính trị, xã hội…, dẫn đến việc nhiều nước quay lại với các biện pháp bảo hộ, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và xuất nhập khẩu của những nước đang phát triển, trong đó có nước ta.
Tuy nhiên, may mắn là Việt Nam có nền nông nghiệp khá vững chắc, bước đầu được công nghiệp hóa, phát huy được vai trò trụ đỡ cho nền kinh tế, nhất là trong tình huống khó khăn chung của kinh tế thế giới. Nghị quyết của Trung ương không những có tầm chiến lược, mà còn kịp thời góp phần ứng phó thành công với những tác động tiêu cực của biến động kinh tế toàn cầu.
Mặc dù mới qua 5 năm triển khai, nhưng với sự đồng tâm nhất trí cao của toàn Đảng, toàn dân, sự quyết liệt chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở, việc thực hiện Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đạt được những bước tiến lớn, những kết quả quan trọng. Sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh mẽ và toàn diện, mặc dù dân số tăng, diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm, nhưng Việt Nam vẫn bảo đảm được an ninh lương thực và xuất khẩu gạo ngày càng tăng, vươn lên vị trí hàng đầu thế giới, bên cạnh đó là một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị trí cao trên thị trường quốc tế như cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản...
Nông nghiệp tăng trưởng đáng kể cả về năng suất, sản lượng và giá trị, nông sản và sản phẩm chế biến từ nông sản xuất khẩu tăng từ 12 lên 16 mặt hàng, có thị trường tiêu thụ tại 160 nước và vùng lãnh thổ, tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 115 tỷ USD (năm 2013 đạt 27,5 tỷ USD), tăng bình quân 15,2%/năm…
Từ đầu năm 2013 đến nay, mặc dù gặp nhiều khó khăn gay gắt, nhưng toàn ngành nông nghiệp vẫn duy trì được sự tăng trưởng, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống dân cư nông thôn. Kết quả đó vừa là thành tựu của công việc thường xuyên, vừa có sự đóng góp quan trọng của việc tiếp tục triển khai Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Việc thực hiện toàn diện các nội dung trong nghị quyết còn đem lại những bước tiến trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. Khoa học, công nghệ, cơ giới hóa nông nghiệp được áp dụng ngày càng rộng rãi đã góp phần tăng năng suất lao động, tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tổng năng lực tưới của hệ thống thủy lợi tăng 70.000 ha; đã mở mới, nâng cấp hàng chục ngàn km đường giao thông nông thôn, 98,3% số xã trong cả nước đã có đường ô tô về đến trung tâm xã; số xã được sử dụng điện đạt 99,89%, số hộ được sử dụng điện lưới đạt 97,3%; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin về cơ bản đã phát triển đến các xã vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm nhanh, hộ nghèo nông thôn còn 12,6%; tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 82%. Mạng lưới trường, lớp học ở vùng nông thôn tiếp tục phát triển. Hệ thống các trạm y tế trên cả nước cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, 99,51% số xã có trạm y tế, trên 86% số thôn, bản có nhân viên y tế. Xây dựng nông thôn mới, đời sống văn hóa ở nông thôn đang trở thành phong trào mạnh mẽ và thiết thực trên khắp cả nước, đến hết năm 2013, bình quân một xã đạt được 7,87 tiêu chí, nhiều mô hình nông thôn mới được phát triển, mở rộng trên các vùng của đất nước.
Điều hết sức quan trọng là Nghị quyết “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” gắn bó mật thiết với “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” (cũng là văn kiện hoàn chỉnh về các quan điểm, chủ trương, mục tiêu và giải pháp để Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, lần đầu tiên được thông qua và nhất trí ban hành tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa X). Việc thực hiện hai nghị quyết này tạo nên sức mạnh cộng hưởng, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển vững chắc giữa các ngành thủy sản, công nghiệp, hàng hải và dịch vụ…
Tuy nhiên, việc triển khai Nghị quyết Trung ương còn chưa đồng bộ xét cả về nội dung, giải pháp và địa bàn, kết quả đạt được còn chưa được như mong muốn, vai trò chủ thể của nông dân chưa được phát huy đầy đủ, chậm tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện trên thực tế. Một bộ phận cán bộ các cấp và nhân dân chưa đạt được mức nhận thức đầy đủ về những nội dung thiết yếu của nghị quyết quan trọng này.
Việc tổ chức thực hiện một số cơ chế chính sách đã ban hành chưa thật sự quyết liệt, còn lúng túng, thiếu đồng bộ, chậm ban hành văn bản hướng dẫn, hoặc do thiếu biện pháp huy động tổng thể nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực tương ứng, thiếu sự kiểm tra, giám sát và đôn đốc. Nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn từ phía Nhà nước tuy được tăng cao hơn, nhưng vẫn rất thấp so với yêu cầu thực tế. Phương thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún đã đưa sản xuất nông nghiệp tới ngưỡng, khó có thể tăng trưởng bền vững nếu không có giải pháp mới.
Các chính sách về thu mua tạm trữ, tiêu thụ nông sản, nhập khẩu muối, vật tư nông nghiệp, khai thác khoáng sản, khai thác, nuôi trồng thủy hải sản, bảo hiểm nông nghiệp chưa mang lại quyền lợi tương xứng cho nông dân. Chính sách tín dụng ưu đãi tuy đã có nhưng nông dân khó tiếp cận, dẫn đến thiếu vốn sản xuất kinh doanh; chính sách về đất đai còn bất cập, việc thu hồi đất nông nghiệp, đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư chưa phù hợp, dẫn đến một bộ phận nông dân mất đất sản xuất, không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn, khiếu kiện kéo dài, phức tạp. Cơ chế, chính sách và sự hỗ trợ đối với ngư dân, diêm dân và đồng bào ở vùng ven biển, hải đảo còn yếu và chưa sát thực tiễn khách quan, nhất là lĩnh vực tín dụng ngân hàng và thuế…
Thực trạng nông dân hiện nay đa số vẫn là những hộ sản xuất quy mô nhỏ. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân tuy có bước cải thiện, nhưng nhìn chung còn nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nông dân băn khoăn, lo lắng về sự phát triển chưa vững chắc của nền kinh tế; về sự lên xuống thất thường của giá nông sản; về dịch bệnh ở cây trồng, vật nuôi; về ô nhiễm môi trường; về biến đổi khí hậu...
Mặt khác, nông thôn phát triển còn thiếu quy hoạch, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô và hội tụ sức mạnh để sản xuất hàng hóa có hiệu quả; mô hình quan hệ sản xuất thích hợp, mở đường cho phát triển sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn chưa đủ rõ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp kém, đời sống văn hóa phát triển không đều, có xu hướng bị lai tạp, môi trường nông thôn bị ô nhiễm, năng lực ứng phó với thiên tai còn nhiều hạn chế.
Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào xây dựng nông thôn mới chưa đủ mạnh. Sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền còn lớn, đang có xu hướng doãng dần khoảng cách... Chương trình xây dựng nông thôn mới thực hiện chậm, thiếu nguồn lực và thiếu cả sự chủ động, sáng tạo, nhiều khả năng không đạt mục tiêu 20% số xã đạt tiêu chí vào năm 2015.
Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội. Ảnh: TTXVN
|
Bám sát thực tiễn, nỗ lực và sáng tạo hơn nữa trong thực hiện nghị quyết
Về quan điểm, tư tưởng, cần quán triệt sâu sắc hơn ba nội dung sau đây:
Một là, đoàn kết, nỗ lực và sáng tạo thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược của nước ta trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó, phải tạo được bước phát triển mới cả về nhận thức, chính sách và giải pháp ngay trong và sau đợt sơ kết này để tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển nhanh và bền vững hơn trong những năm tới.
Hai là, hiện nay, nông thôn là nơi sinh sống của hơn 70% dân số nước ta, tạo nguồn việc làm cho gần 50% số lao động xã hội. Nông dân là lực lượng có truyền thống yêu nước nồng nàn và tinh thần kiên định cách mạng, luôn trung thành với Đảng, đóng góp vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, ưu tiên đầu tư nhiều hơn, toàn diện hơn vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn là hoàn toàn hợp đạo lý và nhất thiết phải làm. Phát triển, hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được ưu tiên thực hiện trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ba là, quá trình tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế quốc dân đòi hỏi việc tái cơ cấu nền nông nghiệp phải đạt tiến độ nhanh hơn, mạnh hơn theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở tái cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm hàng hóa nông nghiệp là vấn đề then chốt.
Trong quá trình đó con người là nhân tố quyết định. Bởi vậy, để tiếp tục thực hiện tốt hơn Nghị quyết của Trung ương, về nguyên tắc, cần đặt lên hàng đầu việc nâng cao vị thế giai cấp nông dân nước ta, bảo đảm cho nông dân đủ năng lực và bản lĩnh của lực lượng chủ công trên mặt trận nông nghiệp và tham gia quyết định một cách công bằng, bình đẳng trong lưu thông, phân phối thành quả sản xuất nông nghiệp nói riêng và phân phối thu nhập quốc dân nói chung.
Việc nâng cao vai trò chủ thể của người nông dân không chỉ đơn thuần là cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, mà còn là vấn đề chiến lược xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có trình độ sản xuất và quản lý ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Đồng thời, cần gắn chặt hơn nữa với việc thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TƯ của Bộ Chính trị “Về Xây dựng và Phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” trên cả hai khía cạnh: Phát triển đội ngũ doanh nhân - nông gia giỏi ở khu vực nông thôn và động viên, khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, doanh nhân ở đô thị hướng về nông thôn, khuyến khích sử dụng, chuyển giao công nghệ cao của thế giới vào nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Đó chính là lực lượng tiên tiến của nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn mới. Là lực lượng nguồn của giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức của nước Việt Nam trên đường phát triển.
Về các giải pháp và bước đi cụ thể. Trên cơ sở đánh giá khách quan 5 năm thực hiện nghị quyết để tiếp tục tiến tới theo nguyên tắc: Những gì đúng, có lợi cho dân, hợp lòng dân thì phát huy, những mô hình, giải pháp thành công thì nhân rộng trong từng địa phương và cả nước tùy theo sự phù hợp điều kiện thực tế ở từng địa phương, từng địa bàn. Những vấn đề gì trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện chưa đạt yêu cầu hoặc đáng lẽ có thể đạt tốt hơn thì cần rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục yếu kém, nâng cao chất lượng công tác. Những gì mà nội dung nghị quyết và cơ chế còn thiếu hoặc chưa phù hợp thì điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới. Trong đó, cần chú trọng mấy nội dung chủ yếu sau:
Một là, công tác quy hoạch, định hướng phát triển. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu. Cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển thị trường hàng hóa nông nghiệp trong điều kiện hội nhập quốc tế và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc này cần tiến hành từ cấp tổng thể toàn quốc tới từng tỉnh, huyện. Quy hoạch tổng thể, liên vùng, liên tỉnh phải đúng tầm, bảo đảm sự tương tác, hỗ trợ, khai thác và phát huy cao độ nguồn lực của đất nước để đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn. Trong đó:
Vùng đồng bằng coi trọng phát triển công nghệ cao; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung; quy hoạch các vùng chuyên canh lúa hàng hóa lớn, chất lượng cao (như vựa lúa, vựa tôm, cá vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa vùng Đồng bằng sông Hồng), hiện đại hóa công nghiệp bảo quản, chế biến; đồng thời phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp, đặc biệt là phát triển các khu công nghiệp, các cụm, nhóm sản phẩm công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao gắn với các đô thị lớn để hình thành các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, có tầm cỡ khu vực, có vai trò dẫn dắt và tác động lan tỏa đến sự phát triển các vùng khác.
Vùng trung du, miền núi phát triển mạnh sản xuất lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu và chăn nuôi đại gia súc, tạo thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, trước hết là cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu… Nông dân sẽ làm giàu từ rừng, đất rừng, bảo vệ và phát triển rừng, sử dụng, khai thác hiệu quả đất rừng trong điều kiện tổ chức sản xuất lớn.
Vùng biển, ven biển và hải đảo đặc biệt chú trọng phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, chế biến thủy sản chất lượng cao, du lịch sinh thái…
Phát triển nhanh đô thị hóa gắn với xây dựng nông thôn mới, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển để ngư dân đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ với ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và chế biến sản phẩm tại các cơ sở công nghiệp hiện đại. Kinh tế biển phải bảo đảm sự gắn kết với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao, như dịch vụ xuất nhập khẩu, du lịch, thủy hải sản, dịch vụ dầu khí, vận tải, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…
Nội dung then chốt trong công tác quy hoạch là chất lượng quy hoạch sử dụng đất - tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Trên cơ sở quy hoạch, xác định cụ thể phương thức sử dụng phù hợp thực tế và tín hiệu thị trường, đem lại giá trị cao đối với từng loại đất, như: đất (bao gồm cả mặt nước nuôi trồng thủy, hải sản) tại các vùng chuyên canh tuy có thể sử dụng linh hoạt để đạt giá trị tối đa theo tín hiệu thị trường, nhưng phải quy hoạch theo quy mô lớn, lâu dài; duy trì quỹ đất trồng lúa (có thể sử dụng linh hoạt trong sản xuất, nhưng không làm mất đi những điều kiện cơ bản để trồng lúa về lâu dài); đất giáp ranh đô thị thì quy hoạch sử dụng quy mô nhỏ, ngắn hạn tương ứng với xu hướng đô thị hóa và thông thường để trồng rau, hoa quả, cây cảnh, một số loại hoa màu và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản… Căn cứ quy hoạch sử dụng đất, xác định nhu cầu lao động tương ứng và xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực để cơ cấu lại lao động trong nông nghiệp và nông thôn.
Có thể nói, phát triển giáo dục, đào tạo là nhiệm vụ then chốt trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương. Cần có chiến lược thực hiện nhiệm vụ này nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng lao động nông nghiệp để đạt con số bình quân mỗi lao động nông nghiệp làm ra lương thực, thực phẩm nuôi vài ba chục người như ở những nước phát triển và chuyển dịch lao động ở nông thôn (đã được đào tạo, có tay nghề) sang các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ cao cấp. Đồng thời, khuyến khích phát triển công nghiệp, dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu tại chỗ ở nông thôn.
Hai là, đổi mới tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nông nghiệp phải được tổ chức sản xuất hiện đại, tiên tiến, khoa học, liên kết, hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh, tăng sản lượng và giá trị hàng hóa tiêu thụ trong nước và xuất khẩu để thu nhập và đời sống nông dân ngày một cao hơn. Đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh doanh nông sản, trước hết là kinh doanh lúa gạo, cần tổ chức tốt các sàn giao dịch nông sản hàng hóa kết hợp với quá trình xây dựng thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp Việt Nam.
Bảo đảm hợp tác chặt chẽ và phân phối lợi ích hợp lý trong suốt quá trình từ cung cấp giống, tổ chức sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, đóng gói tiêu thụ trong nước và xuất khẩu (trong đó có các công ty cổ phần mà nông dân tham gia cổ đông), trên cơ sở đó mới khắc phục được điệp khúc “được mùa, rớt giá” và bảo đảm được mùa, ổn định giá.
Ba là, đẩy nhanh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ hàng hóa; ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra và chủ động được nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị diện tích canh tác. Phương thức tổ chức sản xuất mới, tiên tiến phải được quán triệt sâu sắc trong nông nghiệp và tất cả các ngành, các tổ chức liên quan (như các viện nghiên cứu khoa học, giống cây trồng, vật nuôi) và tổ chức thực hiện theo những phương thức, quy trình phù hợp, hiệu quả cao đối với từng ngành, từng loại sản phẩm nông nghiệp tại từng khu vực, địa bàn.
Bốn là, phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là trong quy hoạch, xây dựng, ban hành chủ trương, chính sách, cơ chế, và tổ chức thực hiện sáng tạo, tạo nên bước đột phá mới. Nông nghiệp có thể ví như trụ đỡ của nền kinh tế nước ta, nhưng việc làm ra sản phẩm lại hết sức khó khăn và thường có giá trị thấp, lại chịu nhiều rủi ro.
Bởi vậy, trước hết, cần khẳng định tư tưởng chủ đạo về chính sách nông nghiệp, nông dân, nông thôn là hỗ trợ, bao gồm các phương thức hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp qua đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - xã hội, các cách thức hỗ trợ trước và sau sản xuất, hỗ trợ nhanh khi bị rủi ro (thông qua hoạt động bảo hiểm và tài trợ). Mặt khác, Nhà nước tổ chức, tạo điều kiện phát triển các ngành công nghệ phục vụ sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ cao cấp ở nông thôn, như mạng lưới ngân hàng, bảo hiểm. Có chính sách đặc thù khuyến khích cho vùng trồng lúa và người trồng lúa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia...
Đặc biệt là đổi mới cơ chế chính sách, huy động các nguồn lực đa dạng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích mạnh mẽ sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế, huy động nhiều hơn các nguồn vốn trong nước và nước ngoài (như ODA, FDI…) đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn để tạo sự đồng bộ giữa chủ trương, chính sách với nguồn lực tài chính và công nghệ từ các nước tiên tiến. Đó là điều kiện hết sức quan trọng cho bước tiến mới trong thực hiện Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Ngay sau đợt sơ kết này, các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp ủy, chính quyền tổng rà soát lại các chương trình, kế hoạch, đề án để tập trung chỉ đạo, sớm hoàn thành; những nội dung chưa hợp lý cần điều chỉnh ngay. Đồng thời thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện, sơ kết, tổng kết để nhân rộng các mô hình làm ăn hiệu quả; kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, đặc biệt là về cơ chế chính sách, tạo động lực cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta không ngừng phát triển.
Năm là, trong xây dựng nông thôn mới, ưu tiên nguồn lực phát triển sản xuất, sớm đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng thiết yếu như giao thông, thủy lợi và cần chú ý nhiều hơn đến phát triển hạ tầng xã hội: Trường học, trạm xá, nhà văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển toàn diện và bền vững nông thôn Việt Nam. Trong thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia quan trọng này, các tiêu chí về nông thôn mới không áp đặt một cách xơ cứng, máy móc, mà cần phù hợp thực tiễn để đạt được những kết quả thiết thực sớm nhất trong từng địa phương. Cần rất coi trọng việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội, kiên quyết phòng, chống các tệ nạn, giữ vững sự bình yên, hạnh phúc trong cuộc sống gia đình và văn hóa cộng đồng ở nông thôn.
Mặt khác, cần thấy rõ rằng, quá trình tích tụ ruộng đất sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, cơ giới hóa nông nghiệp tăng nhanh, sản xuất hàng hóa nông nghiệp phát triển ngày càng cao với quy mô lớn, có phương thức sản xuất hiện đại, vùng sản xuất lớn, cho nên cần coi trọng phát hiện, nhân rộng các mô hình tốt về hợp tác, liên kết trong đầu tư, sản xuất nông, lâm nghiệp và khai thác hải sản trên biển. Đó là xu thế phát triển khách quan trong thời gian tới, vấn đề đặt ra là chúng ta tác động định hướng hiện thực hóa xu thế đó thế nào cho vững chắc để sớm đạt được hiệu quả cao nhất.
Để vận động quần chúng hưởng ứng làm tốt những công việc này, các cấp ủy Đảng, chính quyền cần tạo điều kiện phát huy mạnh mẽ hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể khác trong việc nâng cao quyền dân chủ của nông dân, của các chủ trang trại, các doanh nghiệp, doanh nhân, đặc biệt là quyền tham gia xây dựng các nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước, trọng tâm là các chủ trương, chính sách liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của nông dân và tăng cường hợp tác, liên kết với các cơ sở nghiên cứu, các nhà khoa học, các doanh nghiệp hướng về nông nghiệp, nông thôn.
Những năm qua và nhất là mấy tháng gần đây, nhiều cơ quan báo chí đã có những cố gắng rất đáng hoan nghênh trong thông tin, tuyên truyền về đề tài nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đó là những việc tốt cần phát huy, bởi vì thông tin trên báo chí là căn cứ để các cấp lãnh đạo và bạn đọc, nhất là nông dân tham khảo để thực hiện và triển khai tốt hơn nghị quyết của Đảng trong thời gian tới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bức thư trích dẫn ở phần đầu bài này, đã nhấn mạnh: Có gì sung sướng bằng được góp phần đắc lực vào công cuộc phát triển nông nghiệp - nền tảng để phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tôi nghĩ rằng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc, đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là thiết thực học tập và làm theo tấm gương đạo đức và tư tưởng của Người trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Về quan điểm, tư tưởng, cần quán triệt sâu sắc hơn ba nội dung sau đây:
Một là, đoàn kết, nỗ lực và sáng tạo thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược của nước ta trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó, phải tạo được bước phát triển mới cả về nhận thức, chính sách và giải pháp ngay trong và sau đợt sơ kết này để tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển nhanh và bền vững hơn trong những năm tới.
Hai là, hiện nay, nông thôn là nơi sinh sống của hơn 70% dân số nước ta, tạo nguồn việc làm cho gần 50% số lao động xã hội. Nông dân là lực lượng có truyền thống yêu nước nồng nàn và tinh thần kiên định cách mạng, luôn trung thành với Đảng, đóng góp vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, ưu tiên đầu tư nhiều hơn, toàn diện hơn vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn là hoàn toàn hợp đạo lý và nhất thiết phải làm. Phát triển, hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được ưu tiên thực hiện trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ba là, quá trình tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế quốc dân đòi hỏi việc tái cơ cấu nền nông nghiệp phải đạt tiến độ nhanh hơn, mạnh hơn theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở tái cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm hàng hóa nông nghiệp là vấn đề then chốt.
Trong quá trình đó con người là nhân tố quyết định. Bởi vậy, để tiếp tục thực hiện tốt hơn Nghị quyết của Trung ương, về nguyên tắc, cần đặt lên hàng đầu việc nâng cao vị thế giai cấp nông dân nước ta, bảo đảm cho nông dân đủ năng lực và bản lĩnh của lực lượng chủ công trên mặt trận nông nghiệp và tham gia quyết định một cách công bằng, bình đẳng trong lưu thông, phân phối thành quả sản xuất nông nghiệp nói riêng và phân phối thu nhập quốc dân nói chung.
Việc nâng cao vai trò chủ thể của người nông dân không chỉ đơn thuần là cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, mà còn là vấn đề chiến lược xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có trình độ sản xuất và quản lý ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Đồng thời, cần gắn chặt hơn nữa với việc thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TƯ của Bộ Chính trị “Về Xây dựng và Phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” trên cả hai khía cạnh: Phát triển đội ngũ doanh nhân - nông gia giỏi ở khu vực nông thôn và động viên, khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, doanh nhân ở đô thị hướng về nông thôn, khuyến khích sử dụng, chuyển giao công nghệ cao của thế giới vào nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Đó chính là lực lượng tiên tiến của nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn mới. Là lực lượng nguồn của giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức của nước Việt Nam trên đường phát triển.
Về các giải pháp và bước đi cụ thể. Trên cơ sở đánh giá khách quan 5 năm thực hiện nghị quyết để tiếp tục tiến tới theo nguyên tắc: Những gì đúng, có lợi cho dân, hợp lòng dân thì phát huy, những mô hình, giải pháp thành công thì nhân rộng trong từng địa phương và cả nước tùy theo sự phù hợp điều kiện thực tế ở từng địa phương, từng địa bàn. Những vấn đề gì trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện chưa đạt yêu cầu hoặc đáng lẽ có thể đạt tốt hơn thì cần rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục yếu kém, nâng cao chất lượng công tác. Những gì mà nội dung nghị quyết và cơ chế còn thiếu hoặc chưa phù hợp thì điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới. Trong đó, cần chú trọng mấy nội dung chủ yếu sau:
Một là, công tác quy hoạch, định hướng phát triển. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu. Cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển thị trường hàng hóa nông nghiệp trong điều kiện hội nhập quốc tế và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc này cần tiến hành từ cấp tổng thể toàn quốc tới từng tỉnh, huyện. Quy hoạch tổng thể, liên vùng, liên tỉnh phải đúng tầm, bảo đảm sự tương tác, hỗ trợ, khai thác và phát huy cao độ nguồn lực của đất nước để đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn. Trong đó:
Vùng đồng bằng coi trọng phát triển công nghệ cao; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung; quy hoạch các vùng chuyên canh lúa hàng hóa lớn, chất lượng cao (như vựa lúa, vựa tôm, cá vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa vùng Đồng bằng sông Hồng), hiện đại hóa công nghiệp bảo quản, chế biến; đồng thời phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp, đặc biệt là phát triển các khu công nghiệp, các cụm, nhóm sản phẩm công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao gắn với các đô thị lớn để hình thành các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, có tầm cỡ khu vực, có vai trò dẫn dắt và tác động lan tỏa đến sự phát triển các vùng khác.
Vùng trung du, miền núi phát triển mạnh sản xuất lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu và chăn nuôi đại gia súc, tạo thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, trước hết là cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu… Nông dân sẽ làm giàu từ rừng, đất rừng, bảo vệ và phát triển rừng, sử dụng, khai thác hiệu quả đất rừng trong điều kiện tổ chức sản xuất lớn.
Vùng biển, ven biển và hải đảo đặc biệt chú trọng phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, chế biến thủy sản chất lượng cao, du lịch sinh thái…
Phát triển nhanh đô thị hóa gắn với xây dựng nông thôn mới, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển để ngư dân đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ với ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và chế biến sản phẩm tại các cơ sở công nghiệp hiện đại. Kinh tế biển phải bảo đảm sự gắn kết với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao, như dịch vụ xuất nhập khẩu, du lịch, thủy hải sản, dịch vụ dầu khí, vận tải, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…
Nội dung then chốt trong công tác quy hoạch là chất lượng quy hoạch sử dụng đất - tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Trên cơ sở quy hoạch, xác định cụ thể phương thức sử dụng phù hợp thực tế và tín hiệu thị trường, đem lại giá trị cao đối với từng loại đất, như: đất (bao gồm cả mặt nước nuôi trồng thủy, hải sản) tại các vùng chuyên canh tuy có thể sử dụng linh hoạt để đạt giá trị tối đa theo tín hiệu thị trường, nhưng phải quy hoạch theo quy mô lớn, lâu dài; duy trì quỹ đất trồng lúa (có thể sử dụng linh hoạt trong sản xuất, nhưng không làm mất đi những điều kiện cơ bản để trồng lúa về lâu dài); đất giáp ranh đô thị thì quy hoạch sử dụng quy mô nhỏ, ngắn hạn tương ứng với xu hướng đô thị hóa và thông thường để trồng rau, hoa quả, cây cảnh, một số loại hoa màu và chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản… Căn cứ quy hoạch sử dụng đất, xác định nhu cầu lao động tương ứng và xây dựng quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực để cơ cấu lại lao động trong nông nghiệp và nông thôn.
Có thể nói, phát triển giáo dục, đào tạo là nhiệm vụ then chốt trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương. Cần có chiến lược thực hiện nhiệm vụ này nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng lao động nông nghiệp để đạt con số bình quân mỗi lao động nông nghiệp làm ra lương thực, thực phẩm nuôi vài ba chục người như ở những nước phát triển và chuyển dịch lao động ở nông thôn (đã được đào tạo, có tay nghề) sang các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ cao cấp. Đồng thời, khuyến khích phát triển công nghiệp, dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu tại chỗ ở nông thôn.
Hai là, đổi mới tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nông nghiệp phải được tổ chức sản xuất hiện đại, tiên tiến, khoa học, liên kết, hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh, tăng sản lượng và giá trị hàng hóa tiêu thụ trong nước và xuất khẩu để thu nhập và đời sống nông dân ngày một cao hơn. Đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh doanh nông sản, trước hết là kinh doanh lúa gạo, cần tổ chức tốt các sàn giao dịch nông sản hàng hóa kết hợp với quá trình xây dựng thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp Việt Nam.
Bảo đảm hợp tác chặt chẽ và phân phối lợi ích hợp lý trong suốt quá trình từ cung cấp giống, tổ chức sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, đóng gói tiêu thụ trong nước và xuất khẩu (trong đó có các công ty cổ phần mà nông dân tham gia cổ đông), trên cơ sở đó mới khắc phục được điệp khúc “được mùa, rớt giá” và bảo đảm được mùa, ổn định giá.
Ba là, đẩy nhanh ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong sản xuất, chế biến, bảo quản, tiêu thụ hàng hóa; ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra và chủ động được nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị diện tích canh tác. Phương thức tổ chức sản xuất mới, tiên tiến phải được quán triệt sâu sắc trong nông nghiệp và tất cả các ngành, các tổ chức liên quan (như các viện nghiên cứu khoa học, giống cây trồng, vật nuôi) và tổ chức thực hiện theo những phương thức, quy trình phù hợp, hiệu quả cao đối với từng ngành, từng loại sản phẩm nông nghiệp tại từng khu vực, địa bàn.
Bốn là, phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là trong quy hoạch, xây dựng, ban hành chủ trương, chính sách, cơ chế, và tổ chức thực hiện sáng tạo, tạo nên bước đột phá mới. Nông nghiệp có thể ví như trụ đỡ của nền kinh tế nước ta, nhưng việc làm ra sản phẩm lại hết sức khó khăn và thường có giá trị thấp, lại chịu nhiều rủi ro.
Bởi vậy, trước hết, cần khẳng định tư tưởng chủ đạo về chính sách nông nghiệp, nông dân, nông thôn là hỗ trợ, bao gồm các phương thức hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp qua đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - xã hội, các cách thức hỗ trợ trước và sau sản xuất, hỗ trợ nhanh khi bị rủi ro (thông qua hoạt động bảo hiểm và tài trợ). Mặt khác, Nhà nước tổ chức, tạo điều kiện phát triển các ngành công nghệ phục vụ sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ cao cấp ở nông thôn, như mạng lưới ngân hàng, bảo hiểm. Có chính sách đặc thù khuyến khích cho vùng trồng lúa và người trồng lúa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia...
Đặc biệt là đổi mới cơ chế chính sách, huy động các nguồn lực đa dạng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích mạnh mẽ sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế, huy động nhiều hơn các nguồn vốn trong nước và nước ngoài (như ODA, FDI…) đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn để tạo sự đồng bộ giữa chủ trương, chính sách với nguồn lực tài chính và công nghệ từ các nước tiên tiến. Đó là điều kiện hết sức quan trọng cho bước tiến mới trong thực hiện Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Ngay sau đợt sơ kết này, các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp ủy, chính quyền tổng rà soát lại các chương trình, kế hoạch, đề án để tập trung chỉ đạo, sớm hoàn thành; những nội dung chưa hợp lý cần điều chỉnh ngay. Đồng thời thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện, sơ kết, tổng kết để nhân rộng các mô hình làm ăn hiệu quả; kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, đặc biệt là về cơ chế chính sách, tạo động lực cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta không ngừng phát triển.
Năm là, trong xây dựng nông thôn mới, ưu tiên nguồn lực phát triển sản xuất, sớm đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng thiết yếu như giao thông, thủy lợi và cần chú ý nhiều hơn đến phát triển hạ tầng xã hội: Trường học, trạm xá, nhà văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển toàn diện và bền vững nông thôn Việt Nam. Trong thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia quan trọng này, các tiêu chí về nông thôn mới không áp đặt một cách xơ cứng, máy móc, mà cần phù hợp thực tiễn để đạt được những kết quả thiết thực sớm nhất trong từng địa phương. Cần rất coi trọng việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội, kiên quyết phòng, chống các tệ nạn, giữ vững sự bình yên, hạnh phúc trong cuộc sống gia đình và văn hóa cộng đồng ở nông thôn.
Mặt khác, cần thấy rõ rằng, quá trình tích tụ ruộng đất sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, cơ giới hóa nông nghiệp tăng nhanh, sản xuất hàng hóa nông nghiệp phát triển ngày càng cao với quy mô lớn, có phương thức sản xuất hiện đại, vùng sản xuất lớn, cho nên cần coi trọng phát hiện, nhân rộng các mô hình tốt về hợp tác, liên kết trong đầu tư, sản xuất nông, lâm nghiệp và khai thác hải sản trên biển. Đó là xu thế phát triển khách quan trong thời gian tới, vấn đề đặt ra là chúng ta tác động định hướng hiện thực hóa xu thế đó thế nào cho vững chắc để sớm đạt được hiệu quả cao nhất.
Để vận động quần chúng hưởng ứng làm tốt những công việc này, các cấp ủy Đảng, chính quyền cần tạo điều kiện phát huy mạnh mẽ hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể khác trong việc nâng cao quyền dân chủ của nông dân, của các chủ trang trại, các doanh nghiệp, doanh nhân, đặc biệt là quyền tham gia xây dựng các nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước, trọng tâm là các chủ trương, chính sách liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của nông dân và tăng cường hợp tác, liên kết với các cơ sở nghiên cứu, các nhà khoa học, các doanh nghiệp hướng về nông nghiệp, nông thôn.
Những năm qua và nhất là mấy tháng gần đây, nhiều cơ quan báo chí đã có những cố gắng rất đáng hoan nghênh trong thông tin, tuyên truyền về đề tài nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đó là những việc tốt cần phát huy, bởi vì thông tin trên báo chí là căn cứ để các cấp lãnh đạo và bạn đọc, nhất là nông dân tham khảo để thực hiện và triển khai tốt hơn nghị quyết của Đảng trong thời gian tới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bức thư trích dẫn ở phần đầu bài này, đã nhấn mạnh: Có gì sung sướng bằng được góp phần đắc lực vào công cuộc phát triển nông nghiệp - nền tảng để phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tôi nghĩ rằng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc, đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết của Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là thiết thực học tập và làm theo tấm gương đạo đức và tư tưởng của Người trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Theo baotintuc.vn