Thương hiệu cho nông sản Việt
- Thứ tư - 27/07/2016 23:03
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Việt Nam không hiếm mặt hàng nông sản thế mạnh, nhưng sản phẩm có thương hiệu trên thị trường quốc tế lại thiếu trầm trọng. Đó là một nghịch lý không dễ khắc phục. Nông sản nước ta phần lớn xuất khẩu ở dạng thô, các doanh nghiệp nước ngoài sau khi nhập đã chế biến và sử dụng tên, thương hiệu của họ.
Điều này, không chỉ làm giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông sản, mà còn là một thách thức lớn đối với sản xuất nông nghiệp nước ta trong bối cảnh hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới.
Thực tế, có rất nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu với số lượng hàng đầu thế giới, như gạo, cà phê, hạt điều, cao su, hồ tiêu, cá tra… nhưng giá xuất khẩu lại luôn thấp hơn các sản phẩm cùng loại của nhiều nước và bị thao túng về giá cả. Ở khía cạnh nào đó, các sản phẩm nông sản sản xuất quy mô lớn đều hướng đến thị trường xuất khẩu, tuy nhiên, rất ít khách hàng nước ngoài biết đó là thương hiệu của Việt Nam. Chẳng hạn, dù Việt Nam đứng thứ hai thế giới về sản xuất cà phê (trong đó cà phê robusta đứng đầu thế giới), nhưng vẫn chưa có thương hiệu cà phê theo đúng nghĩa. Một số sản phẩm nông sản khác cũng vậy (gạo, cá tra, rau quả, thanh long…), nhiều năm trở lại đây thường xuất với giá rẻ, thậm chí còn bị bạn hàng ép giá do chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Câu hỏi đặt ra là tại sao Việt Nam chưa có thương hiệu đặc trưng cho một số nông sản được xuất khẩu với số lượng lớn? Phải thấy rằng, nông sản Việt Nam thiếu sức cạnh tranh, trước hết là do trình độ thâm canh thấp, quy mô sản xuất manh mún, giá thành lại cao. Đây là hệ quả của việc liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân thiếu chặt chẽ, chưa hiệu quả và thiếu tính bền vững. Nông dân sản xuất thì trông cậy vào sự may rủi giá cả thị trường. Doanh nghiệp xuất khẩu thì coi nhẹ việc thiết lập thị trường tiêu thụ ổn định, căn cơ, thậm chí lệ thuộc vào một vài thị trường truyền thống tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Phần lớn doanh nghiệp nông - lâm - thủy sản vẫn chưa liên kết với nông dân xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, đảm bảo chất lượng; chưa xây dựng được chuỗi cung ứng nông sản như những tập đoàn, doanh nghiệp nước ngoài để đủ sức điều tiết thị trường. Đơn cử, sản phẩm lúa gạo của Việt Nam luôn đứng trong top đầu về xuất khẩu, tuy nhiên chúng ta chưa có nổi một thương hiệu gạo để quảng bá. Theo một số chuyên gia nông nghiệp, chúng ta chưa có chương trình và nỗ lực thực sự để xây dựng và phổ biến thương hiệu; thiếu sự phối hợp giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp, thương lái và nông dân để tạo ra một thương hiệu gạo chất lượng cao… Mặt khác, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, khâu thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch, kỹ thuật canh tác lạc hậu, chất lượng sản phẩm không bảo đảm, giá thành cao khiến nông sản Việt Nam không đủ sức cạnh tranh.
Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam sẽ khó thành công nếu không có chính sách đồng bộ, sự liên kết giữa người làm khoa học, người nông dân và hệ thống chế biến, tiêu thụ. Đó là việc hình thành mối liên kết từ cung ứng đầu vào (người sản xuất) đến khâu lưu thông (thương lái), chế biến (nhà máy, doanh nghiệp) và phân phối sản phẩm. Vấn đề đặt ra là cần có một chương trình đầu tư bài bản, bền bỉ, lâu dài, tuân thủ các yêu cầu về chất lượng nông sản xuất khẩu theo chuẩn quốc tế.
Mặt khác, xây dựng thương hiệu cũng cần đi đôi với việc bảo vệ và phổ biến thương hiệu. Điều đó cũng đòi hỏi, trước hết người sản xuất phải có ý thức về thương hiệu, có hệ thống pháp luật và cơ quan bảo vệ thương hiệu, quảng bá thương hiệu. Thực tế cho thấy, việc thiếu kiểm soát trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản, đã tạo điều kiện cho hàng trôi nổi từ nước ngoài giả danh hàng Việt Nam, khiến nhiều nông sản Việt Nam bị thất thế ngay trên sân nhà, chứ chưa nói xuất khẩu.
Do vậy, muốn xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt, đòi hỏi tất yếu là phải hướng tới một nền nông nghiệp công nghệ cao, hình thành các vùng chuyên canh nông sản với năng suất và chất lượng cao. Nói cách khác, chỉ có áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ để giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh, thì nông sản Việt Nam mới có đủ khả năng tham gia thị trường toàn cầu.