Chiến lược phát triển KHCN 2011-2020: Tạo động lực then chốt phát triển đất nước
- Thứ bảy - 14/04/2012 23:14
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Ngày 11/4, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 với nhiều nội dung đổi mới và mang tính đột phá.
Với quan điểm coi phát triển khoa học công nghệ là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững, khoa học công nghệ phải đóng vai trò chủ đạo để tạo được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH đất nước, Chiến lược đã đặt mục tiêu đến năm 2020, khoa học và công nghệ góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tái cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP.
Ba nhiệm vụ chủ yếu sẽ được tập trung thực hiện đồng bộ là tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ; tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội ở các cấp, ngành.
Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ là mục tiêu, đồng thời là giải pháp quan trọng để góp phần đưa khoa học và công nghệ Việt Nam sớm đạt trình độ quốc tế. Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ phải được thực hiện tích cực, chủ động, sáng tạo, đảm bảo độc lập, an ninh quốc gia và cùng có lợi.
Chiến lược cũng đặt mục tiêu tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 10-15%/năm giai đoạn 2011-2015 và trên 20% giai đoạn 2016-2020; giá trị giao dịch của thị trường khoa học và công nghệ tăng trung bình 15-17%/năm.
Quan điểm nổi bật trong Chiến lược phát triển khoa học công nghệ 2011-2020 là Nhà nước tăng mức đầu tư cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quốc gia, các sản phẩm quốc gia; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Mục tiêu chính là phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ đạt 1,5%GDP vào năm 2015 và trên 2%GDP vào năm 2020; bảo đảm mức đầu tư từ Ngân sách Nhà nước cho khoa học và công nghệ không dưới 2% tổng chi Ngân sách Nhà nước hàng năm.
Với mức đầu tư tập trung, phấn đấu năm 2015, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 9-10 người/10.000 dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế 5.000 kỹ sư đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước. Đến năm 2020, Việt Nam sẽ hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và Thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu quốc gia đặt ra đối với khoa học và công nghệ; 5.000 doanh nghiệp khoa học và công nghệ; 60 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
Số lượng công bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách Nhà nước tăng trung bình từ 15-20%/năm. Số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011-2015 tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006-2010, giai đoạn 2016-2020 tăng 2 lần so với giai đoạn 2011-2015. Đặc biệt, số lượng sáng chế được tạo ra từ các chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước được đặt mục tiêu tăng nhanh trong thời gian này.
Theo Chiến lược được phê duyệt, định hướng thời gian tới sẽ tiếp tục nhiệm vụ tái cấu trúc và quy hoạch lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ quốc gia theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, trùng lặp và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, các ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế.
Đồng thời, nâng cao năng lực của các trường Đại học về nghiên cứu cơ bản; Xây dựng tại mỗi vùng kinh tế trọng điểm ít nhất một tổ chức khoa học và công nghệ mạnh gắn với tiềm năng, lợi thế của vùng, liên kết chặt chẽ với các trường đại học để đào tạo nhân lực, thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Khuyến khích, hỗ trợ hình thành, phát triển các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế; phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Phát triển mạnh doanh nghiệp khoa học và công nghệ, chủ yếu từ các trường Đại học, Viện nghiên cứu.
Để thực hiện nhiệm vụ tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ, Chiến lược nhấn mạnh đến định hướng tập trung đầu tư phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ trọng điểm, liên kết các tổ chức khoa học và công nghệ có cùng tính chất, lĩnh vực hoặc liên ngành; hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh đủ năng lực giải quyết những nhiệm vụ trọng điểm quốc gia. Năng lực nghiên cứu cơ bản của các trường Đại học trọng điểm quốc gia cũng được nâng cao; phát triển các nhóm nghiên cứu trẻ có tiềm năng trong các trường Đại học, Viện nghiên cứu.
Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các khu CNC, khu nông nghiệp ứng dụng CNC, Khu CNTT tập trung, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học công nghệ, trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng ở Trung ương và địa phương.
Về cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ, mô hình hợp tác công-tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ sẽ được triển khai tích cực; phát triển các hình thức hợp tác nghiên cứu, đổi mới công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực giữa khu vực công và tư.
Cơ chế cấp phát tài chính để thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ sẽ được chuyển dần sang cơ chế quỹ; triển khai nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các quỹ khoa học và công nghệ bao gồm các quỹ quốc gia, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.
Chuyển các tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thực hiện nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ theo đặt hàng của Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp và tổ chức khác.
Ba nhiệm vụ chủ yếu sẽ được tập trung thực hiện đồng bộ là tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ; tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội ở các cấp, ngành.
Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ là mục tiêu, đồng thời là giải pháp quan trọng để góp phần đưa khoa học và công nghệ Việt Nam sớm đạt trình độ quốc tế. Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ phải được thực hiện tích cực, chủ động, sáng tạo, đảm bảo độc lập, an ninh quốc gia và cùng có lợi.
Chiến lược cũng đặt mục tiêu tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 10-15%/năm giai đoạn 2011-2015 và trên 20% giai đoạn 2016-2020; giá trị giao dịch của thị trường khoa học và công nghệ tăng trung bình 15-17%/năm.
Quan điểm nổi bật trong Chiến lược phát triển khoa học công nghệ 2011-2020 là Nhà nước tăng mức đầu tư cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quốc gia, các sản phẩm quốc gia; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Mục tiêu chính là phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ đạt 1,5%GDP vào năm 2015 và trên 2%GDP vào năm 2020; bảo đảm mức đầu tư từ Ngân sách Nhà nước cho khoa học và công nghệ không dưới 2% tổng chi Ngân sách Nhà nước hàng năm.
Với mức đầu tư tập trung, phấn đấu năm 2015, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 9-10 người/10.000 dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế 5.000 kỹ sư đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước. Đến năm 2020, Việt Nam sẽ hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và Thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu quốc gia đặt ra đối với khoa học và công nghệ; 5.000 doanh nghiệp khoa học và công nghệ; 60 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
Số lượng công bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách Nhà nước tăng trung bình từ 15-20%/năm. Số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011-2015 tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006-2010, giai đoạn 2016-2020 tăng 2 lần so với giai đoạn 2011-2015. Đặc biệt, số lượng sáng chế được tạo ra từ các chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước được đặt mục tiêu tăng nhanh trong thời gian này.
Theo Chiến lược được phê duyệt, định hướng thời gian tới sẽ tiếp tục nhiệm vụ tái cấu trúc và quy hoạch lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ quốc gia theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, trùng lặp và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, các ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế.
Đồng thời, nâng cao năng lực của các trường Đại học về nghiên cứu cơ bản; Xây dựng tại mỗi vùng kinh tế trọng điểm ít nhất một tổ chức khoa học và công nghệ mạnh gắn với tiềm năng, lợi thế của vùng, liên kết chặt chẽ với các trường đại học để đào tạo nhân lực, thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Khuyến khích, hỗ trợ hình thành, phát triển các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế; phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Phát triển mạnh doanh nghiệp khoa học và công nghệ, chủ yếu từ các trường Đại học, Viện nghiên cứu.
Để thực hiện nhiệm vụ tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ, Chiến lược nhấn mạnh đến định hướng tập trung đầu tư phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ trọng điểm, liên kết các tổ chức khoa học và công nghệ có cùng tính chất, lĩnh vực hoặc liên ngành; hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh đủ năng lực giải quyết những nhiệm vụ trọng điểm quốc gia. Năng lực nghiên cứu cơ bản của các trường Đại học trọng điểm quốc gia cũng được nâng cao; phát triển các nhóm nghiên cứu trẻ có tiềm năng trong các trường Đại học, Viện nghiên cứu.
Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các khu CNC, khu nông nghiệp ứng dụng CNC, Khu CNTT tập trung, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học công nghệ, trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng ở Trung ương và địa phương.
Về cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ, mô hình hợp tác công-tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ sẽ được triển khai tích cực; phát triển các hình thức hợp tác nghiên cứu, đổi mới công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực giữa khu vực công và tư.
Cơ chế cấp phát tài chính để thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ sẽ được chuyển dần sang cơ chế quỹ; triển khai nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các quỹ khoa học và công nghệ bao gồm các quỹ quốc gia, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.
Chuyển các tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thực hiện nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ theo đặt hàng của Chính phủ, các bộ, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp và tổ chức khác.
Theo báo khoa học và phát triển