Đất và nghề: nhu cầu bức thiết của nông dân
- Thứ sáu - 09/03/2012 20:44
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Cho đến nay, nước ta vẫn là nước nông nghiệp, với 76% số dân sống ở nông thôn và bằng nghề nông, vì thế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết vấn đề nông dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện tại hai vấn đề lớn nổi lên liên quan trực tiếp tới nông dân là đất canh tác và đào tạo nghề.
Trong hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật, phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới.
Những kết quả bước đầu đó đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn nước ta và nâng cao mức sống của người dân. Tuy nhiên, như Nghị quyết Trung ương ba (Khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhận định: “...đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc”
Đất đai là tài sản của nông dân: cội rễ của vấn đề
Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, hiện đang trở thành vấn đề “nóng”, được dư luận quan tâm. Việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp được thực hiện trong gần 20 năm qua đã góp phần giải phóng sức lao động, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật và hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung, gắn với bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, từ đó thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hóa phát triển. Tuy nhiên, cùng với thời gian, những bất cập cũng nảy sinh và ngày càng trở nên bức xúc xung quanh việc xử lý đất nông nghiệp.
Thứ nhất, bất cập do sự biến động của dân cư nông thôn và do chính sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Nếu như cách đây 20 năm, việc giao đất được tính theo nhân khẩu tại thời điểm giao ruộng (chủ yếu là năm 1993) và theo phương châm "có xấu, có tốt, có gần, có xa”. Thực tế hiện nay cho thấy, số nhân khẩu mới phát sinh không được chia ruộng, một bộ phận thanh niên nông thôn chuyển đến làm việc trong các khu công nghiệp, hoặc di cư ra đô thị tìm việc làm, đã làm cho tỷ lệ người lớn tuổi và phụ nữ lao động ở nông thôn, làm nông nghiệp khá lớn. Việc giao đất theo phương châm trước đây đã và đang bộc lộ những hạn chế, đó là tạo ra tình trạng ruộng đất manh mún, không phù hợp với xu thế tích tụ ruộng đất, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới. Thí dụ, ở Nam Định, mặc dù đã thực hiện “dồn điền, đổi thửa” giảm số thửa từ 6,7 thửa/hộ xuống còn 3,1 thửa/hộ, nhưng nhìn chung vẫn còn manh mún bởi việc “dồn điền, đổi thửa” chỉ làm giảm số thửa/hộ, làm tăng quy mô diện tích của thửa đất chứ không hoàn toàn là tích tụ đất đai. Ngoài ra, vẫn còn tâm lý coi đất như “của để dành”, nên một số người tuy không còn nhu cầu sử dụng nhưng cũng không chuyển nhượng, chuyển đổi trong khi một bộ phận nông dân không có đất sản xuất do sinh sau thời gian giao ruộng. Thực tế này mâu thuẫn với yêu cầu tích tụ ruộng đất để sản xuất tập trung, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại.
Thứ hai, do quá trình đô thị hóa, một phần khá lớn diện tích đất nông nghiệp được thu hồi để chuyển đổi mục đích sử dụng, nhằm triển khai thực hiện các dự án. Bản thân sự chuyển đổi này là một quá trình tất yếu trên con đường phát triển, vấn đề nảy sinh là ở chỗ, lợi ích thu được từ sự chuyển đổi này thuộc về ai và được phân bổ thế nào. Thực tế cho thấy, khi đang còn là diện tích đất lúa, đất nông nghiệp (đất canh tác, đất thổ canh), thì khoản tiền gọi là bồi thường, đền bù giải phóng mặt bằng chỉ ở mức thấp, nhưng khi đã được chuyển đổi thành diện tích mặt bằng đất thổ cư, đất phi nông nghiệp, thì giá đất tăng cao rất cao và chủ dự án được hưởng siêu lợi nhuận, gấp rất nhiều lần giá đất bồi thường, đền bù. Và do cơ hội thu được siêu lợi nhuận như vậy nên dễ làm nảy sinh tiêu cực để được “bật đèn xanh” địa điểm đầu tư dự án xây dựng, kinh doanh phi nông nghiệp trên mặt bằng diện tích đất lúa, đất nông nghiệp... Một số ít người, nhờ đó, đã trở nên giàu có khiến cho nông dân bức xúc. Đây là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến những khiếu kiện, khó khăn trong giải tỏa mặt bằng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, ảnh hưởng tới quá trình tích tụ đất.
Thứ ba, sử dụng đất nông nghiệp lãng phí. Tính từ năm 2001 đến 2010, bình quân hằng năm, gần 10 vạn héc-ta đất nông nghiệp được thu hồi để phục vụ việc xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ, đô thị, đường giao thông. Hầu hết các khu công nghiệp, dịch vụ, đô thị… đều bám dọc các quốc lộ huyết mạch, các vùng nông thôn trù phú. Khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm; trong đó, 80% thuộc loại đất màu mỡ cho 2 vụ lúa/năm. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp cộng với quá trình tăng dân số đã làm cho đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm, hiện chỉ còn dưới 0,1ha/người; (bình quân trên thế giới là 0,25ha/người). Sự yếu kém trong quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng đất cùng với tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt đã dẫn đến tình trạng sử dụng đất nông nghiệp tùy tiện, lãng phí. Có không ít dự án, khu công nghiệp được quy hoạch, xây dựng nhưng để đất hoang hoá, không lấp đầy được diện tích, nhiều công trình được đầu tư hàng chục tỉ đồng nhưng không được đưa vào sử dụng. Việc sử dụng lãng phí đất nông nghiệp, nhất là diện tích đất màu mỡ đã tác động tiêu cực đến một bộ phận lao động nông thôn.
Thứ tư, người dân chưa được tư vấn, định hướng đầy đủ trong việc sử dụng số tiền được đền bù khi bị thu hồi đất, hoặc cách thức giúp người nông dân có một cuộc sống ổn định hơn sau khi không còn đất để canh tác theo truyền thống, nên gặp khó khăn trong mưu sinh. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy, khi người nông dân có một khoản tiền lớn quá nhanh, nhiều người trong số họ rất bỡ ngỡ trong việc sử dụng sao cho hiệu quả, vì thế thường có một đội ngũ những người tư vấn giúp họ sử dụng tiền một cách hợp lý thông qua việc hướng dẫn họ cách đầu tư, phương án, lĩnh vực đầu tư và đồng hành cùng họ cho đến khi việc đầu tư mang lại kết quả; hoặc tiếp tục tư vấn, hỗ trợ khi đầu tư chưa đạt kết quả mong muốn. Thực tế ở nước ta cho thấy, một phần do thiếu kiến thức cũng như thiếu hướng dẫn sử dụng khoản tiền có được từ đền bù đất, đã làm cho không ít người, sau khi nhận tiền đền bù, tiêu xài hoang phí cho đến khi đất không còn mà tiền cũng hết, làm nảy sinh những vấn đề xã hội bức xúc.
Thứ năm, thời gian giao đất cho nông dân chưa đủ để những người có đầu óc kinh doanh, làm ăn lớn yên tâm đầu tư lâu dài vào nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất. Một câu hỏi đang được đặt ra và tranh luận hiện nay là, “chúng ta giao đất cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, dịch vụ, giao cho người nước ngoài đến 50 năm, 90 năm, nhưng tại sao không giao đất lâu dài cho nông dân sản xuất trên mảnh đất của họ?”.
Với người nông dân, đất đai là tài sản chính nuôi sống họ, khi chưa được sử dụng hợp lý sẽ tác động tiêu cực đến sự ổn định cuộc sống, sự phát triển nông thôn và an ninh lương thực.
Đào tạo nghề, tạo việc làm mới chưa theo kịp với tốc độ thu hồi đất
Đây là một nghịch lý. Thực tế là, công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn chưa đủ sức tạo việc làm mới để thu hút lao động nông nghiệp, trước hết là đối với các hộ nông dân thuộc diện thu hồi đất, vì thế, nông dân không có việc làm có nhiều bức xúc. Bình quân mỗi năm ở nông thôn có khoảng 13-15 nghìn lao động không có việc làm, trong khi trình độ lao động của họ chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. Theo thống kê, có trên 83% lao động nông thôn chưa qua khóa đào tạo khoa học - kỹ thuật nào; khoảng 18,9% lao động nông thôn đang làm việc chưa tốt nghiệp tiểu học trở xuống. Vì thế, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm tốt hơn đối với nhóm lao động này là rất khó. Bên cạnh đó, nếp làm ăn lạc hậu trong ngành nông nghiệp truyền thống và tình trạng ruộng đất manh mún, nhỏ lẻ như hiện nay đã hạn chế tính năng động, sáng tạo, làm ăn lớn của người nông dân trong sản xuất, kinh doanh, cũng như khả năng tiếp cận thị trường. Thu nhập của lao động nông nghiệp thấp, mang tính thời vụ, độ rủi lại ro cao do phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên nên không hấp dẫn được lao động nông nghiệp, tạo nên làn sóng di cư đến các đô thị lớn. Tình trạng này đã dẫn đến một thực tế là vừa thiếu lao động nông nghiệp khi vào mùa vụ, vừa ứ đọng một lượng lớn lao động ở nông thôn. Đây chính là lý do khiến tỷ lệ nghèo tập trung chủ yếu ở nông thôn. Nguồn lao động thất nghiệp này góp thêm vào những nguyên nhân làm nảy sinh các vấn đề xã hội bức xúc khác.
Nghị quyết số 26-NQ-TW, ngày 5-8-2008, Hội nghị Trung ương 7, khóa X, về nông nghiệp, nông dân và nông thôn xác định: “Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hòa giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông thôn… Hình thành Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm hằng năm đào tạo khoảng một triệu lao động nông thôn; phấn đấu đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”. Tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề còn rất thấp, mới chỉ chiếm 16,8%. Chỉ riêng việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn, theo Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 27-11-2009, bình quân mỗi năm đã là 1 triệu lao động. Thêm vào đó, bản thân người nông dân cũng có nhu cầu học nghề để cập nhật kiến thức, nâng cao kỹ năng, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Thực trạng đào tạo nghề và nhu cầu học nghề cho thấy, mặc dù Nhà nước đã rất quan tâm đến việc dạy nghề và đặt ra mục tiêu cụ thể, nhưng cơ chế, chính sách, luật pháp liên quan đến công tác này chưa đầy đủ; việc dạy nghề và học nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường và xã hội; đầu tư của Nhà nước và xã hội không tăng trong khi chi phí đào tạo lại tăng thường xuyên; chưa thiết lập được mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp; người nông dân còn thụ động trong học nghề và hay “nhảy nghề”.
Nông nghiệp - trung tâm của giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế xanh
Một chuyên gia Viện Nghiên cứu Trái đất (WWI) - tổ chức môi trường quốc tế có trụ sở ở Wasington, cho rằng, “Sẽ đến lúc các quốc gia không còn đối đầu với nhau bằng vũ khí nữa mà đối đầu với nhau vì thiếu nước uống và lương thực, giá cả nhu yếu phẩm tăng vọt kéo theo bất ổn chính trị. Đó là tương lai của nhân loại nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời”. Nguy cơ này đã làm cho việc thuê đất của nước ngoài để canh tác có xu hướng phát triển nhanh, gây nên nhiều hệ lụy không mong muốn. Còn Giám đốc Điều hành UNEP Achim Steiner nói: “Nông nghiệp là trung tâm của giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế xanh ít cácbon và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên”. Ông Steiner khẳng định, nông nghiệp phát triển bền vững và được quản lý tốt không những có thể khắc phục nghèo đói mà còn có thể giải quyết nhiều thách thức khác từ biến đổi khí hậu đến thất thoát đa dạng sinh học.
Điểm qua những nhận định trên để có thể thấy rõ hơn việc bảo vệ, gìn giữ đất nông nghiệp có vai trò quan trọng như thế nào trong thế giới hiện đại cũng như lợi thế của một nước nông nghiệp như nước ta. Tuy nhiên, để khai thác tối đa ưu thế này, chúng ta không thể tránh khỏi việc đất đai sẽ được tích tụ để sản xuất theo hướng chuyên nghiệp hóa, có nền sản xuất nông nghiệp hiện đại.
Như trên đã trình bày, trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất cũng như quá trình tích tụ đất tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra tiêu cực, vì thế, cần xác định rõ quan điểm ưu tiên người nông dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, gắn với quá trình phát triển quan hệ sản xuất mới mà ở đó nông dân là chủ thể, liên kết với doanh nghiệp, thị trường; bảo đảm người nông dân không bị mất sinh kế. Một vấn đề quan trọng nữa là, cần bảo đảm tính minh bạch trong quá trình tích tụ đất đai, quá trình này cần được diễn ra trên cơ sở tất yếu kinh tế và sự đồng thuận, bình đẳng chứ không dựa trên các biện pháp hành chính đơn thuần, gượng ép.
Liên quan mật thiết đến sự thành công của quá trình tích tụ đất là tạo điều kiện để bộ phận nông dân khi rời bỏ sản xuất nông nghiệp có việc làm ổn định, được đào tạo nghề và học nghề phù hợp với nhu cầu, khả năng và yêu cầu của thị trường lao động. Muốn vậy, việc học nghề cũng như đào nghề cần gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng ngành, từng vùng, từng địa phương. Việc nắm bắt nhu cầu và yêu cầu này cần được đi trước một bước và được triển khai thường xuyên với quy mô và mức độ khác nhau, để kịp thời bổ sung những thông tin về yêu cầu của những nghề mới, bảo đảm “đầu ra” của đào tạo có cơ hội nhanh chóng tìm được việc làm phù hợp.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao hơn nữa điều kiện sống cả về vật chất và tinh thần của người nông dân đặt ra rất nhiều vấn đề cần được giải quyết. Tuy nhiên, đất đai - với tư cách là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của người nông dân và giải quyết việc làm cho nông dân khi họ không có đất để mưu sinh, là những vấn đề được coi là bức xúc nhất cần được tập trung giải quyết hiện nay./.
Theo tapchicongsan.org.vn