Những gương liệt nữ trong đại gia đình Nguyễn Công Trứ

Những gương liệt nữ trong đại gia đình Nguyễn Công Trứ
Nhiều người biết về một Nguyễn Công Trứ (quê huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) có tài kinh bang tế thế nhưng ngạo đời, ngất ngưởng" - làm cây thông đứng giữa trời mà reo”, nhưng có lẽ ít ai biết đến một gia đình có những người phụ nữ trinh liệt, tài thơ, hiền thục..., được dân gian ngưỡng vọng, lưu truyền.

Chân dung Nguyễn Công Trứ. (Ảnh tư liệu)

Đại gia đình danh gia vọng tộc

Qua tài liệu “Nghi Xuân Uy Viễn Nguyễn gia thế phả” và một số gia phả các dòng họ lớn ở huyện Nghi Xuân (họ Đặng – Uy Viễn, họ Nguyễn – Tiên Điền, họ Trần – Đan Phổ...), các sách địa chí, tư liệu của một số nhà địa phương học và bằng điền dã, bước đầu chúng tôi xin cung cấp tư liệu về một số danh nữ trong gia đình Nguyễn Công Trứ.

“Họ ta vốn dòng thế gia Nho học, đời đời theo nghiệp thi cử” – đó là câu mở đầu bản phả họ. Cụ tổ đầu tiên của dòng họ này là Nguyễn Anh Mại, hiệu Nam Hiên tiên sinh, “vì binh hỏa di cư tới thôn An Phúc, xã Bạch Đường, huyện Nam Đường” (nay là xã Lam Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An), sinh ra cụ Nguyễn Công Huy (còn có tên khác là Nguyễn Minh Kinh). Nhà nghèo nhưng học giỏi nên cụ được Liêu quận công Đặng Sỹ Vinh gả cho con gái thứ 5 là Đặng Thị Thiệp, sau đó chuyển cư về quê vợ ở Uy Viễn, Nghi Xuân và sinh ra Nguyễn Công Tấn, bố của Nguyễn Công Trứ. Đặng Sỹ Vinh (hậu duệ đời thứ 10 của Quốc công Đặng Tất), đỗ Hoành từ năm Bính Tuất (1706), làm Tri huyện Đông Thành, Tri phủ Thuận Thiên, là nhạc phi của Xuân quận công Nguyễn Nghiễm (Nguyễn Nghiễm có đến hai bà vợ là con gái của Đặng Sỹ Vinh, bà Đặng Thị Dương là mẹ Nguyễn Khản, bà Đặng Thị Duyệt là mẹ Nguyễn Điều) nên sau khi mất được giao phong Đô ngự sử, tước Thiếu bảo, Liêu quận công.

Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ là lễ hội lớn nhất của cư dân huyện mới ven biển Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. (Ảnh internet).

Chị gái của vợ Nguyễn Công Huy, bà Đặng Thị Phương là chính thất của Thái Bộc Tự khanh Đặng Thái Bàng, cũng quê ở Uy Viễn, đậu thi Hương khoa Mậu Tý (1708), tiếp đó đỗ Hoành từ, từng giữ nhiều chức vụ, đã dịch bộ sách Kinh Dịch ra diễn ca Quốc âm. 5 cô con gái của Đặng Thái Bàng và bà Đặng Thị Phương lần lượt được gả cho La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Tri phủ Phan Huy Diễn, Thái nhạc quận công (không rõ tên), Tri phủ Tiên Hưng Nguyễn Công Tấn (bà Đặng Thị Tần) và Tam giáp Tiến sĩ Nguyễn Khản. Như vậy, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Công Tấn (bố Nguyễn Công Trứ) và Nguyễn Khản (anh trai Đại thi hào Nguyễn Du) là bạn đồng hao, có bố vợ là Thái Bộc Tự khanh Đặng Thái Bàng, ông nội vợ (cũng là bố vợ Nguyễn Nghiễm) là Liêu quận công Đặng Sỹ Vinh.

Các thế hệ sau cũng có quan hệ thông gia với một số họ lớn trong vùng như chị gái của Nguyễn Công Trứ làm dâu họ Nguyễn – Tiên Điền; vợ cả của Nguyễn Công Trứ, bà Đặng Thị là cháu gái của Đặng Thái Bàng; hai cô con gái của ông Hy Văn được gả về họ Trần ở Đan Phổ - bà Nguyễn Thị Sương lấy ông Trần Trọng Kiên, chú ruột học giả Trần Trọng Kim, bà Nguyễn Thị Quyên (con gái út của ông Hy Văn) lấy Tú tài Trần Văn Ý...

Những liệt nữ trung trinh và tài giỏi

Bà Nguyễn Thị Muội (chị gái cùng cha khác mẹ của Nguyễn Công Trứ), hiệu Diệu Điển thiền sư, là “người có nhan sắc lại thông tuệ, từng thiệp liệp kinh sử, giỏi văn thơ, được mọi người ví như Thái Cơ, Tạ Uẩn” (gia phả). Năm 16 tuổi, bà lấy chồng là Trang tiết Hiệu úy Nguyễn Đống, con trai cả của quan Tham chính, cháu ông Tham đốc họ Nguyễn ở xã Tiên Điền, sau 3 năm, bà sinh con gái nhưng rồi chồng mất, con gái cũng chết, bà đã toan chết theo chồng con nhưng được mọi người ngăn cản. Lúc bà 20 tuổi, quân Tây Sơn bình định miền Bắc, thân thích nhà chồng chạy loạn hết (dinh cơ họ Nguyễn – Tiên Điền bị đốt phá, thiêu rụi), bà làm nhà cạnh nhà cũ của chồng, suốt ngày đóng cửa cài then. Có viên Trấn thủ Nghệ An là Trần Thận biết được phẩm hạnh của bà, cho người đến mai mối. Gia phả ghi câu trả lời của bà: “Thân góa bụa chưa chết này thường nghe: người phụ nữ thờ chồng cho đến chết, nay chồng vừa mất, đã không chết được theo chồng lại “ôm đàn tỳ bà qua thuyền khác” thì còn mặt mũi nào đứng ở trong đời. Nhờ nói giùm tôi như vậy. Nếu bị ép buộc, tôi chỉ còn đường trẫm mình xuống dòng nước xanh mà kết liễu cuộc đời thôi”. Viên Trấn thủ biết không lay chuyển được nên ngay đêm ấy đem quân bủa vây nơi ở; nghe có biến, bà sai người hầu mang áo dài trùm kín lẻn ra ngoài.

Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Nghi Xuân. (Ảnh: Đậu Hà)

Mấy tháng sau, người nhà mới biết bà đã trốn vào chùa Đỗ Phật ở xã Thuần Chân, huyện Thiên Lộc (nay là xã Thuần Thiện, huyện Can Lộc), cắt tóc đi tu. Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), bà được ban cờ Tiết nghĩa, ban sắc “Trinh tiết khả phong”. Lúc bấy giờ, Nguyễn Công Trứ đang làm Tổng đốc Hải Yên đã xuất tiền lệnh cho bản xã sửa lại chùa Viên Quang ở quê đón bà về trụ trì. Năm Canh Tuất 1850, khi Nguyễn Công Trứ vừa hưu quan đã cho trùng tu và đúc một quả chuông. Còn biển vàng vua ban thì bản xã dựng một ngôi nhà ngói phía tây treo lên “để làm rõ ân điển triều đình”. Ngôi nhà này được dân địa phương gọi là Đình Trinh Tiết. Sau khi bà Diệu Điển mất (năm Thiệu Trị thứ 2, 1841), chùa và đình đều bị hư hại nặng; năm Tự Đức thứ 28 (1875), con cháu và dân địa phương tìm địa điểm mới dựng lại am và đình, trong am có câu đối ca ngợi bà: “Dương dương chính khí từ vân hợp; Hách hách trinh tâm bạch nhật huyền” (Rỡ ràng chính khí mây từ hội; Son sắt lòng trinh giữa đất trời). Bài Đề từ trong am cũng khá dài, có đoạn: “Cho nên tên tuổi các bậc trung thần, hiếu tử, liệt nữ là bất hủ. Địa duy nhờ đó mà được lập, thiên trụ nhờ đó mà được tôn... Lúc sống được ban cờ tiết, mất đi còn mãi tiếng thơm; chính khí cùng Hồng Lam sống mãi; thanh danh cùng trung hiếu vẹn tròn. Do vậy, sau trăm năm tiếng thơm vẫn hưng khởi lòng người, chứ đâu phải tán dương mà được vậy...”.

Tên tuổi bà và chùa Viên Quang, đình Trinh Tiết đã được sách “Nghi xuân địa chí” của Lê Văn Diễn ghi chép, trong mục Liệt nữ, Chùa chiền, Đình và nhiều sử sách đề cập đến.

Sách này cũng ghi chép về bà Đặng Thị Minh, người vợ cả gắn bó với Nguyễn Công Trứ lúc hàn vi tại quê nhà Uy Viễn (cưới năm 1796, lúc Nguyễn Công Trứ 18 tuổi). Bà là con gái lớn của Phấn Lực Tướng quân, tước Duệ Xuyên bá Đặng, là cháu gái của Đặng Thái Bàng, về với ông Hy Văn khi nhà rất nghèo khổ, hạt muối mắm đều nhờ ở bà. Buổi mai, đội thúng không úp thay nón đi vay, đến trưa vay được gạo và thức ăn, lại ngửa thúng đội về. Giữa khoảng mùa hè sang mùa thu giáp hạt, bà đi làm thuê nhổ cỏ ruộng, chạy gạo từng bữa, không một lời oán thán. Ông Hy Văn giao tiếp rộng nên nhiều bầu bạn qua lại, bà ân cần khoản đãi, đêm không có đèn, bà rút phên làm đuốc thắp lên soi sáng để khách ngồi chơi. Đến khi chồng hiển đạt, bà thành mệnh phụ, nhưng vẫn cần cù không hề lười nhác, bà lại sắp xếp khuyên răn các bà vợ thiếp, nàng hầu có khuôn phép nên mọi người không dám khinh lờn. Bà thương yêu con vợ thiếp như con mình sinh ra. Bà sinh được 2 con trai là Hi Cát, Hi Khương. Theo gia phả, Nguyễn Công Trứ có 13 vợ, 28 người con.

Một người con gái của Nguyễn Công Trứ là bà Nguyễn Thị Quyên (1830-1897) được gả cho Tú tài Trần Văn Ý ở xã Đan Phổ, huyện Nghi Xuân, nên thường gọi là bà Tú Ý. Bà rất thông tuệ, có tài thơ, nhưng rất tiếc, hầu hết các tác phẩm đã bị thất lạc. Trong sách “Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ” (Thái Kim Đỉnh sưu tầm, biên soạn) chỉ ghi chép được 5 bài thơ của bà, phần nào thể hiện tâm sự uất ức trước cảnh nguy biến của đất nước, chí khí muốn hành động... Bài “Thế sự như nay”:

Thế sự như nay đã đổi rồi

Đá vàng âu cũng đổ mồ hôi

Nom lên Hồng Lĩnh mây tuôn ngược

Ngó xuống Lam Giang nước chảy xuôi

Còn nước, còn non, còn vũ trụ

Có trời, có đất, có vua tôi

Ai về nhắn với phường hào kiệt

Phải tính răng đây há lẽ ngồi?

Hoặc đoạn cuối trong bài “Khóc chồng”:

Hầu dễ vàng phai cùng đá nát

Nhớ khi rượu sớm với trà trưa

Chon von Hồng Lĩnh lòng son thắm

Trải mấy năm trời những nắng mưa...

Một người chị của bà Tú Ý, bà Nguyễn Thị Sương lấy ông Trần Trọng Kiên cũng ở xã Đan Phổ đã tần tảo chăm lo gia đình, động viên chồng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo; ông Kiên đã hy sinh anh dũng trong trận đánh ở làng Phú Yên (nay thuộc xã Phú Gia, Hương Khê) năm Ất Dậu (1885), được dân địa phương tôn làm Thành hoàng làng. Anh trai ông, Trần Bá Huân (bố của học giả Trần Trọng Kim) tiếp tục chiến đấu cùng nghĩa quân Cần Vương và mất năm Giáp Ngọ, 1894.

Mặc dù dòng tộc và Uy Viễn Tướng công không để lại cho quê hương, hậu thế một công trình kiến trúc cụ thể nào như nhiều dòng tộc, danh nhân khác trong vùng, nhưng gia đình ông đã đóng góp cho đất nước, hậu thế những vùng đất khẩn hoang trù phú ở Bắc Bộ, Nam Bộ, tạo ra những “kỳ nhân” được người đời ngưỡng mộ, thờ phụng và đặc biệt, một kho tàng di sản văn hóa hết sức phong phú, hấp dẫn.

Theo Baohatinh.vn