Mô hình hướng tới mục tiêu lựa chọn giống lúa thuần mới, đảm bảo năng suất, chất lượng cao, phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai và canh tác ở địa phương.
Với quy mô 10ha, mô hình được triển khai tại cánh đồng 42, thôn 2 Tâng, xã Thanh Hương, huyện Thanh Liêm; sử dụng giống Bắc thơm số 7 để làm đối chứng so sánh. Doanh nghiệp phối hợp cung ứng giống và tiêu thụ sản phẩm cho mô hình là Công ty TNHH MTV Đầu tư và Phát triển nông nghiệp Hà Nội. Mô hình được gieo cấy ở trà Xuân muộn bằng hình thức gieo sạ, với mật độ trung bình 80-100 cây/m2. Để đạt hiệu quả cao, mô hình đã tổ chức tập huấn kỹ thuật cho cán bộ Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, các hộ nông dân trong mô hình; phát quy trình kỹ thuật cho từng hộ…
Được biết HDT10 là giống lúa thơm, chất lượng cao được Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm chọn tạo bằng phương pháp lai hữu tính, chọn kiểu gen thơm bằng chỉ thị phân tử ADN. Đây là giống lúa thuần, giống cảm ôn, có thể gieo trồng 2 vụ/năm (vụ Xuân muộn và mùa sớm), đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận chính thức trong đầu tháng 1/2019.
Qua theo dõi mô hình cho thấy: Giống HDT10 có tỷ lệ nảy mầm cao (>95%), sức sống tốt, thời gian sinh trưởng ngắn (vụ Xuân 106 ngày), ngắn hơn 5 ngày so với giống Bắc thơm số 7. Thời gian lúa trỗ tập trung 4-5 ngày, giúp cây lúa tránh được diễn biến bất thuận của điều kiện thời tiết vào giai đoạn trỗ bông.
Về khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh, HDT10 nhiễm bệnh khô vằn nhẹ hơn so với đối chứng, bệnh xuất hiện muộn hơn và phát triển chậm: ở giai đoạn phát triển đòng, tỷ lệ bệnh là 11,0%, chỉ số bệnh 2,2%; giai đoạn lúa chín sữa, tỷ lệ bệnh 17,0%, chỉ số bệnh 3,2%. Đồng thời giống HDT10 có khả năng chống chịu tốt với bệnh bạc lá, giai đoạn lúa chín sữa chưa phát hiện thấy bệnh phát sinh gây hại. Các dịch hại khác như sâu cuốn lá nhỏ, rầy nâu so với đối chứng Bắc thơm số 7 là tương đương. Trong vụ, giống HDT10 phun thuốc trừ dịch hại (cỏ, ốc bươu vàng…) 2 lần, ít hơn 1 lần so với ruộng đối chứng.
Về năng suất, so với giống Bắc thơm số 7, HDT10 có số bông/m2 nhiều hơn 12 bông; số hạt chắc/bông nhiều hơn 11 hạt; tỷ lệ hạt chắc cao hơn 4,1%. Năng suất thực thu của giống HDT10 đạt 228,8kg/sào (63,6 tạ/ha), cao hơn đối chứng 19,3%.
Về hiệu quả kinh tế, trong cùng điều kiện, sản xuất bằng giống HDT10 so với Bắc thơm số 7 chi phí thấp hơn 24.500 đồng/sào, nhờ việc giảm công phun thuốc bảo vệ thực vật và lượng thuốc, năng suất lại cao hơn nên có lãi cao hơn đối chứng 214.800 đồng/sào, tương ứng gần 6 triệu đồng/ha. Toàn bộ số thóc sản xuất được Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển nông nghiệp Hà Nội thu mua với giá dự kiến 6.700 đồng/kg thóc khô.
Nhìn chung, HDT10 có khả năng sinh trưởng khoẻ, đẻ nhánh tập trung, tán lá gọn, lá đòng đứng màu xanh đậm, trỗ đều, có số bông và hạt chắc/bông nhiều hơn so với đối chứng. Khả năng chống chịu một số dịch hại như bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá, rầy nâu, rầy lưng trắng ở mức độ khá và tương đương với giống đối chứng, nhưng độ nhiễm bệnh bạc lá và bệnh khô vằn nhẹ hơn.Về hình thái có hình dạng đẹp, lá to, cứng, đứng, màu xanh đậm, thân cây cứng, hạt thon dài, màu nâu sẫm.
Việc thực hiện thành công mô hình ứng dụng giống lúa mới HDT10 theo hướng sản xuất hàng hoá, quy mô tập trung gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp 1,8 lần so với cấy giống cũ. Đây là hình thức không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa thay đổi cách thức sản xuất gắn liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời nâng cao nhận thức của người dân về một số giống lúa mới có năng suất chất lượng tốt, nhằm loại dần các giống cũ vẫn đang sử dụng phổ biến không hiệu quả.
Thanh Liêm - TT Khuyến nông Hà Nam
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn