Một trang trại sử dụng đệm lót sinh học tại Hà Nam cho hiệu quả cao. Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Đau đầu xử lý chất thải chăn nuôi
Cũng theo ông Hoàng Thanh Vân, những năm qua, chất thải vật nuôi trong nông hộ được xử lý chủ yếu thông qua các biện pháp như: Ủ làm phân chuồng theo phương pháp truyền thống; xứ lý bằng công nghệ khí sinh học Biogas, các chế phẩm sinh học, ao sinh học…
Tuy nhiên, các phương pháp này chưa thể giải quyết được vấn đề về môi trường, bởi theo tính toán của các chuyên gia, hằng năm, tổng đàn gia súc, gia cầm ở Việt Nam thải vào môi trường khoảng 80-85 triệu tấn chất thải rắn. Đây là một trong những nguồn chất thải lớn có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường vùng nông thôn và ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người dân.
Trong khi đó, chăn nuôi trang trại dù phần nào đã tiếp cận được với các tiến bộ kỹ thuật mới và có nhiều thay đổi đáng kể về giống, thức ăn, công nghệ chăn nuôi và công tác quản lý, nhưng do phân bố không đồng đều và chưa có sự thống nhất về quy hoạch tổng thể; thêm vào đó, kinh phí đầu tư cho xử lý chất thải và công nghệ xử lý còn thiếu sự đầu tư nên chưa đáp ứng được tiêu chuẩn.
Đơn cử như toàn tỉnh Cà Mau chỉ có khoảng 22 trang trại chăn nuôi, còn gần như trên 200.000 con heo và 1,4 triệu con gia cầm là chăn nuôi nhỏ lẻ, không có biện pháp xử lý nguồn phân, nước độc hại mà đưa trực tiếp ra đồng ruộng, sông ngòi tới 868 tấn chất thải mỗi năm.
Thực tế này không chỉ khiến làng quê ô nhiễm, mà nhiều năm Cà Mau bị tái phát dịch bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm, lở mồm long móng, tai xanh… gây thiệt hại lớn về kinh tế, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.
Theo ông Nguyễn Đăng Vang, Chủ tịch hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam, trên thực tế, nếu ở một xã, số hộ chăn nuôi lợn chỉ chiếm 20-30% tổng số hộ thì hầm biogas là giải pháp hiệu quả cho việc xử lý chất thải chăn nuôi, nhưng nếu số hộ chăn nuôi lợn chiếm tới 50-60% thì hầm biogas có những hạn chế. Lượng nước thải từ hầm biogas của từng hộ dồn chung vào nguồn nước thải của xã, nguồn nước thải này thường không được xử lý, vẫn nhiễm khuẩn và lại là nguồn gây bệnh cho gia súc, gia cầm trong toàn xã và các vùng xung quanh.
Giải pháp từ đệm lót sinh học
Vừa qua, Bộ NNPTNT đã công nhận tiến bộ kỹ thuật cho chế phẩm sinh học BALASA N01 và Quy trình ứng dụng chế phẩm này làm đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn và gà.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để ứng dụng và triển khai nhân rộng mô hình chăn nuôi trên đệm lót sinh học. Tuy nhiên, sản phẩm này cũng cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung ứng và chuyển giao cho hộ nuôi và các địa phương có nhu cầu.
Bên cạnh đó, Bộ cũng giao cho Học viện Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu để tạo ra tập đoàn vi sinh vật hữu ích mới, đồng thời khuyến khích các nhà khoa học, các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu chuyên sâu tạo ra nhiều chủng loại men vi sinh và quy trình công nghệ mới phù hợp làm đệm lót sinh học chăn nuôi trong thời gian tới.
Ông Nguyễn Thanh Sơn, Viện trưởng Viện Chăn nuôi cho biết, ứng dụng chế phẩm vi sinh vật để làm đệm lót sinh học trong chăn nuôi đã được các nước có nền công nghệ vi sinh hiện đại áp dụng từ lâu. Tuy nhiên, công nghệ này mới bước đầu được áp dụng tại Việt Nam. Việc ứng dụng hệ vi sinh vật được chọn tạo hoặc sản phẩm tách chiết từ chúng vào chăn nuôi cũng như xử lý chất thải sẽ mở ra tiềm năng lớn cho chăn nuôi hữu cơ và thị trường cho sản phẩm chăn nuôi cũng đang ngày càng được quan tâm, mở rộng.
Trong các công nghệ áp dụng cho chăn nuôi lợn ở Việt Nam thì công nghệ vi sinh là lĩnh vực được phát triển nhanh và có tính ứng dụng cao. Trên cơ sở chế phẩm EM (vi sinh vật hữu hiệu) của Nhật Bản, Tiến sỹ Lê Khắc Quảng, Giám đốc Trung tâm Phát triển công nghệ Việt-Nhật, đã trực tiếp chuyển giao công nghệ này vào Việt Nam.
Đệm lót sinh học là một lớp đệm dày 60cm bao gồm tro than hút ẩm, trấu và rơm cắt nhỏ… được trộn với chế phẩm vi sinh có tác dụng tiêu hủy phân và nước tiểu, hình thành một lớp sinh khối sạch, hạn chế vi khuẩn bệnh và ký sinh trùng, loại bỏ ruồi muỗi, không mùi hôi. Để nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học, mỗi lợn thịt cần 1,5m2 và một lợn nái cần 9m2 chuồng. Chăn nuôi lợn, trâu bò hay gia cầm trên nền đệm lót sinh học đều rất hiệu quả. Đối với chăn nuôi lợn, lượng nước có thể tiết kiệm tới 80%, chi phí lao động cũng giảm 60% do không phải tắm cho lợn và rửa chuồng. Lợn ít bệnh, hạn chế việc sử dụng kháng sinh, giảm chi phí thuốc thú y; lợn không bị stress do sống chật chội, không được ủi bới; lợn mau lớn, giảm chi phí thức ăn, chất lượng thịt ngon… |
Dựa trên nghiên cứu gốc, các nghiên cứu mới bổ sung sau này được thương mại hóa thành các sản phẩm EM chứa nhiều chủng loại vi sinh vật được chọn tạo đã có mặt trên thị trường. Các chế phẩm trên có hiệu quả khác nhau nhưng đều có một hoặc nhiều tác động lên chăn nuôi lợn như giảm thiểu mùi hôi từ chất thải và hô hấp từ lợn; tăng cường phân hủy chất thải thành vi sinh hữu cơ, góp phần tăng cường sức đề kháng cho lợn, đồng thời giảm được chi phí trong chăn nuôi.
Theo Cục Chăn nuôi, hiện tỉnh Hà Nam đang đứng đầu cả nước về số lượng mô hình, tổng diện tích đệm lót sinh học và chính sách đi kèm khuyến khích các cơ sở chăn nuôi lợn áp dụng quy trình chăn nuôi trên đệm lót sinh học. Từ năm 2010 đến tháng 4/2013, Hà Nam đã xây dựng được 1.120 mô hình với tổng diện tích đệm lót sinh học là 17.750 m2 cho chăn nuôi lợn. Hiện tỉnh đang hỗ trợ 100% chi phí làm đệm lót cho các hộ chăn nuôi áp dụng chế phẩm làm đệm lót sinh học với mức 165.000 đồng/m2 đối với các hộ làm từ 10m2 trở lên và nuôi từ 5-10 con trên một lứa. Ngoài ra, tỉnh cũng hỗ trợ cho công tác đào tạo, tập huấn về quy trình, kỹ thuật đối với các hộ nuôi.
Đỗ Hương
Theo chinhphu.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn