Ngoài việc sử dụng trực tiếp, trái cây còn được chế biến thành nhiều dạng sản phẩm khác nhau như: mứt, quả đóng hộp, quả sấy khô, nước quả…Ngoài Inđônêxia, Thái Lan và Philippine, Việt Nam cũng là nước có diện tích cây ăn quả lớn của khu vực Đông Nam Á và có các vùng sinh thái khác nhau nên chủng loại cây ăn quả rất đa dạng.
Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn không thể đẩy mạnh xuất khẩu trái cây do diện tích trồng tập trung còn ít, sản lượng chưa cao, chất lượng kém, dư lượng chất xử lý chín và bảo quản, kích cỡ trái cây không đều và không đảm bảo cung cấp quanh năm. Do đó, sản xuất cây ăn quả ở nước ta chưa phát huy hết tiềm năng và ưu thế sản phẩm cây ăn quả nhiệt đới. Vì vậy, nhóm nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu hợp tác Khoa học kỹ thuật Châu Á-Thái Bình Dương do TS. Nguyễn Thị Xuân Hiền làm chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ xử lý chín trái cây (chuối, xoài, hồng xiêm, sầu riêng, mít, đu đủ) bằng hóa chất an toàn” trong giai đoạn 2014 -2015.
Đề tài nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch, duy trì giá trị dinh dưỡng, chất lượng trái cây; ứng dựng công nghệ xử lý chín trái cây bằng hóa chất an toàn làm cơ sở lấy lại lòng tin của người tiêu dùng nội địa. Hơn nữa, kết quả của đề tài sẽ góp phần phát triển ngành trái cây một cách bền vững, phục vụ tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho người nông dân, lực lượng lao động hiện còn chiếm trên 70% dân số Việt Nam.
Một số kết quả của nghiên cứu:
1. Các loại cây trồng chuối, xoài, hồng xiêm, sầu riêng, đu đủ chủ yếu đã được quy hoạch hoặc hình thành các vùng sản xuất tập trung theo quy trình canh tác được ban hành bởi Bộ Nông nghiệp & PTNT. Trong khi đó, đối với cây mít vẫn chưa được quy hoạch và canh tác vẫn theo kinh nghiệm của người dân.
Xử lý chín trái cây vẫn song song tồn tại phương thức xử lý: truyền thống (dùng nhiệt, ủ đất đèn, đóng cọc xoan...) và sử dụng các hóa chất để xử lý chín (Hoa quả thúc chín tố, HPC-97 HXN, Trái chín, Adephone 48SL, Ethrel 40% và đất đèn). Việc sử dụng hóa chất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và không tuân theo quy trình kỹ thuật chính thức nào được ban hành từ các cơ quan chức năng.
Các kênh phân phối các loại quả chuối, mít và đu đủ chủ yếu được tiêu thụ thông qua thương lái (khoảng 50%), còn lại là thông qua các kênh bán lẻ và tiêu dùng trong gia đình. Các loại quả xoài, hồng xiêm, sầu riêng được tiêu thụ chủ yếu thông qua hệ thống các vựa tiêu thụ (chiếm khoảng 80%), còn lại là thông qua các kênh bán lẻ trực tiếp.
2. Thời điểm thu hoạch hợp lý cho các quả chuối, xoài, hồng xiêm, sầu riêng, mít và đu đủ được xác định để dùng cho xử lý chín bằng hóa chất an toàn, cho mục đích ăn tươi và tiêu thụ ở thị trường như sau: Chuối từ 100 - 120 NSTB; Xoài từ 96 - 105 NSĐQ; Hồng xiêm từ 165 - 180 NSĐQ; Sầu riêng từ 90 - 110 NSĐQ; Mít từ 120 NSĐQ và Đu đủ từ 130 – 135 NSĐQ.
3. Xử lý chín quả bằng Ethrel 40% an toàn cho xử lý chín quả chuối, mít và đủ đủ ở các nồng độ/liều lượng tương ứng là 0,03%, 0,20 ml/kg quả và 0,025%. Sử dụng Adephone 48SL nồng độ 0,10% an toàn cho xử lý chín các quả xoài, hồng xiêm và sầu riêng. Thời gian cách ly cho việc xử lý quả chuối, xoài, hồng xiêm, sầu riêng, mít, đu đủ là 48 giờ.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn