11:09 EDT Thứ năm, 23/05/2024
CHỦ ĐỀ HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HCM CỦA VP ĐIỂU PHỐI NTM HÀ TĨNH "GƯƠNG MẪU, CHỦ ĐỘNG, TÂM HUYẾT, KHOA HỌC, HIỆU QUẢ"

Menu Hệ thống

Tư vấn chính sách
Văn bản Pháp luật
Văn bản Pháp luật
Điều hành tác nghiệp Hà Tĩnh
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Cổng Thông tin Điện tử Hà Tĩnh
Công báo Hà Tĩnh
Báo Nông nghiệp Việt nam
Khuyến nônng Việt Nam
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tĩnh

TRANG CHỦ » Tin Tức » Nhà nông cần biết » Khoa học công nghệ


Đối tác chiến lược ngành in bạt quảng cáo

in bạt hiflex - in decal pp - in decal ngoài trời - in băng rôn

Nuôi sò thương phẩm

Chủ nhật - 21/07/2013 10:23
(Thủy sản Việt Nam) - Sò (sò lông, sò huyết) là động vật thân mềm vừa có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế. Sò còn là đối tượng có khả năng cải tạo chất lượng nước tốt, nước thải ao nuôi tôm, cá có thể dùng để nuôi sò hoặc nuôi sò trong ao chứa để lọc nước trước khi đưa vào ao tôm.

Chọn bãi nuôi

Bãi nuôi là những nơi ít sóng gió, gần cửa sông. Chất đáy tốt nhất là bùn mềm pha lẫn cát mịn. Cũng giống như nuôi ngao, bãi nuôi sò tốt nhất là tuyến triều thấp, thời gian phơi bãi ngắn. Khu vực bãi nuôi phải nhiều thức ăn, nước tốt. Bãi nuôi nên chọn khu vực gần cửa sông để có thể bổ sung dinh dưỡng, cần chú ý đến sự thay đổi của độ mặn để tránh ảnh hưởng tới sò nuôi.

 

Bãi nuôi sò thường gần cửa sông - Ảnh: Thanh Nhã

Chuẩn bị bãi nuôi

Bãi nuôi sò phải được san bằng phẳng, vệ sinh mặt bãi. Bãi nuôi rộng cần chia ra thành từng ô để tiện chăm sóc, theo dõi cũng như thu hoạch. Xung quanh bãi nên chắn đăng hoặc lưới để ngăn địch hại vào bãi hoặc ngăn không cho sò đi.

Trong trường hợp nuôi sò trong ao, đầm thì phải đảm bảo một số điều kiện như:

- Bờ bao: Xây dựng bờ bao có độ cao thích hợp tùy theo cao trình của vùng đất và biên độ thủy triều.

- Mương: Gồm mương bao và mương chính để dẫn nước từ ngoài vào và thoát nước khi trao đổi nước. Kích thước mương phụ thuộc vào diện tích của đầm.

- Bãi sò: Đây là nơi sinh sống của sò, bãi cần phải làm phẳng, cao trình bãi phải đảm bảo thấp để có thể điều tiết nước theo thủy triều trong quá trình nuôi.

- Cống: Dùng để điều chỉnh lượng nước trong đầm. Tùy theo diện tích của đầm mà xây dựng cống có khẩu độ và số lượng đầy đủ để đảm bảo sự trao đổi nước.

- Bờ cản: Với những đầm có diện tích lớn, dòng chảy mạnh thì cần có bờ cản để hạn chế tác động của dòng chảy mạnh vào bãi sinh sống của sò.

 

Lấy giống tự nhiên

Việc lấy giống sò có thế lấy lúc bãi cạn hoặc bãi ngập nước.

Lấy giống lúc bãi cạn: khi triều xuống lộ mặt bãi, dùng cào cào lớp bùn trên mặt sau đó dùng sàng, rổ, lưới để đãi bùn loại bỏ rác, tạp vật để lấy sò giống. Mỗi lần lấy giống xong phải san lại mặt bãi cho bằng phẳng để thu giống sò đợt sau.

Lấy giống lúc bãi ngập nước: cách lấy giống này qui mô hơn, thường tiến hành vào những ngày yên sóng hoặc lúc triều bắt đầu xuống nhưng nước còn ngập bãi. Dụng cụ gồm thuyền máy có lưới cào hoặc dùng cào tay, cào lớp bùn trên mặt để thu giống.

Vận chuyển giống: Sau khi lấy giống có thể vận chuyển giống bằng phương pháp giữ ẩm. Thời gian vận chuyển là 2 - 3 ngày tùy theo điều kiện thời tiết. Ở nhiệt độ thấp, thời gian cho phép để vận chuyển lâu hơn và tỉ lệ sống cao hơn. Trong quá trình vận chuyển nên thường xuyên tưới nước biển giữ ẩm cho sò, tránh mưa nắng.

 

Thả giống

Sò giống tốt thường có màu trắng hồng, sạch sẽ, không lẫn tạp chất, rác, sinh vật địch hại như cua, ốc. Không thả giống khi con giống có mùi hôi thối, có dấu hiệu chết. Nên thả giống khi nước còn ngập bãi 10 - 15cm để sò không bị phơi nắng và có thời gian chui xuống bùn ẩn nấp. Có thể dùng thuyền đi trên bãi rải giống đều khắp mặt bãi. Lượng giống thả khoảng 7 - 22 ngàn con/m2 (cỡ giống 20.000 - 60.000 con/kg). Tránh xuống giống nước chảy mạnh làm sò giống bị cuốn trôi theo dòng nước.

 

Chăm sóc và thu hoạch

Trong quá trình nuôi cần chú ý sự thay đổi của các yếu tố môi trường, nhất là nồng độ muối. Vào mùa mưa, các vùng gần cửa sông nồng độ muối thường giảm đột ngột ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỉ lệ sống của sò.

Theo dõi màu sắc mặt bãi nuôi: Màu sắc của bãi nuôi và sự sinh trưởng của sò có liên quan theo một qui luật. Mặt bãi màu đen hoặc hơi nâu sẽ có nhiều sinh vật làm thức ăn cho sò, sò sinh trưởng nhanh. Mặt bãi màu xanh hoặc vàng chúng tỏ các loại tảo đáy mọc dày, không có lợi cho sò, sò chậm lớn. Mặt bãi màu trắng chứng tỏ có sóng lớn cuối trôi bùn ra khỏi bãi.

Nên thường xuyên kiểm tra bãi sò, các hệ thống lưới, đăng chắn, bờ bao, cống... để kịp thời sửa chữa. Kiểm tra điều kiện môi trường, tình trạng bãi nuôi nhằm hạn chế những bất lợi cho hoạt động sống của sò. Trong quá trình nuôi nên định kỳ cào sò xung quanh lưới chắn để san thưa vì sò thường tập trung xung quanh lưới chắn. Việc cào sò để san thưa cũng giúp tiêu diệt địch hại, cân bằng mật độ, giúp sò mau lớn hơn.

 

Sò nuôi 1 năm, đạt cỡ 40 - 60 con/kg có thể thu hoạch

Thu hoạch

Sau thời gian nuôi 1 năm có thể thu hoạch, cỡ phổ biến là 40 - 60 con/kg. Dùng cào tay hoặc cào máy để thu hoạch và vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Thu hoạch có thể tiến hành quanh năm tùy theo thị trường, nhưng tốt nhất nên tiến hành vào thời điểm sò thành thục sinh dục vì giai đoạn này sò béo, đạt tối đa cả về khối lượng và chất lượng.

Đoàn Quân

Thủy sản Việt Nam

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Thư viện Hình ảnh



Thăm dò ý kiến

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM nên theo chỉ tiêu nào?

Số xã về đích (đạt 19/19 tiêu chí)?

Tổng số tiêu chí đạt chuẩn?

Tổng mức độ tiến bộ của tất cả các tiêu chí (theo phương pháp chấm điểm)?

Phương án khác?

Thời tiết - Tỷ giá

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 138


Hôm nayHôm nay : 46559

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 1316828

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 61638785