Hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ Lễ hội Dừa Bến Tre lần thứ tư năm 2015, nhằm mang đến cái nhìn toàn diện về các chính sách của T.Ư cũng như địa phương trong triển khai đồng bộ các giải pháp về phát triển nông sản xuất khẩu vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Hội thảo đã thu hút nhiều ý kiến, tham luận từ các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp. Từ đó, có những khuyến nghị, đề xuất chính sách đối với NHNN, các Bộ Ngành và Chính phủ, nhằm tăng tính hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển nông sản xuất khẩu, phát huy hiệu quả, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của khu vực ĐBSCL.
Vùng chuyên canh sản xuất nông sản
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh khẳng định, những năm qua, ngành ngân hàng đã bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp tín dụng đối với các tỉnh ĐBSCL. Đặc biệt là tín dụng đối với nông sản xuất khẩu của vùng ĐBSCL.
Theo số liệu từ NHNN, tổng dư nợ cho vay đối với các tỉnh ĐBSCL không ngừng tăng lên qua các năm, từ 271.556 tỷ đồng (2012) lên 302.794 tỷ đồng (2013), lên 334.146 tỷ đồng (2014), đến hết tháng 2-2015 dư nợ tăng lên 353.816 tỷ, chỉ riêng trong hai tháng đầu năm 2015 đã tăng lên hơn 20 nghìn tỷ đồng. Trong đó, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL đạt khoảng 163.000 tỷ đồng, tăng gần 10 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2014, lần lượt chiếm tỷ trọng 22%/tổng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn toàn quốc và hơn 46% tổng dư nợ của vùng. Riêng dư nợ cho vay trong hoạt động sản xuất, tiêu thụ thủy sản, lúa gạo là 59.586 tỷ đồng, chiếm 37% dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của toàn vùng.
Trong tổng dư nợ cho vay với nông nghiệp, nông thôn, tín dụng ngân hàng đã hướng mạnh vào các chương trình tạo ra nông sản chủ lực xuất khẩu của vùng ĐBSCL như tín dụng đối với tôm, cá tra, sản phẩm cây dừa, như: chương trình cho vay thu mua chế biến gạo xuất khẩu, chương trình mua tạm trữ hàng triệu tấn lúa/năm, nhằm bảo đảm ổn định mặt bằng giá của khuyến khích nông dân trồng lúa xuất khẩu,…
Bên cạnh đó, với vai trò phân bổ và cung cấp nguồn lực tài chính chủ yếu, vốn tín dụng ngân hàng cho nông nghiệp nông thôn đã tạo ra vùng chuyên canh sản xuất hàng lớn về nông sản xuất khẩu của ĐBSCL, cụ thể toàn vùng đã: cung cấp lương thực, trái cây, thủy sản lớn nhất của cả nước với sản lượng gạo xuất khẩu chiếm 90% tổng sản lượng gạo xuất khẩu, đưa Việt Nam trở thành nước có trữ lượng xuất khẩu gạo thứ hai thế giới; trái cây chủ lực có lượng xuất khẩu lớn, thu về ngoại tệ (hơn một tỷ đôla Mỹ), như: thanh long (chiếm hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu), dừa (chiếm 27,2% tổng kim ngạch), dứa (hơn 16% tổng kim ngạch), mít (3,5%), bưởi (chiếm 1,6%), xoài (chiếm 1,5%). Theo nhiều ý kiến, đây là tín hiệu vui cho ngành trồng cây ăn quả xuất khẩu của ĐBSCL, đặt nền tảng cho việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp trong toàn vùng theo hướng phát triển xanh, bền vững.
Nỗ lực đẩy mạnh tín dụng
Có thể nói, tín dụng ngân hàng đã góp phần không nhỏ tạo ra vùng chuyên canh hàng hóa nông sản xuất khẩu và nhìn về lâu dài là tạo vùng nguyên liệu chế biến nhiều sản phẩm giá trị gia tăng từ nông sản. Tuy nhiên, cũng đan xen không ít rủi ro, thách thức mang đến cho đồng vốn tín dụng của ngân hàng.
Theo đó, trong thời gian tới, nền kinh tế Việt Nam hội nhập càng sâu vào kinh tế thế giới, nước ta chủ động ký kết thực thi một loạt các hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) với một số nước. Điều này mang đến nhiều cơ hội cho sản xuất nông sản xuất khẩu nhưng cũng đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức. Trước tiên, là sức cạnh tranh của nông sản trong nước với các nước trong khu vực ASEAN, chưa kể các nước có nền nông nghiệp phát triển như Mỹ, Australia,... đối mặt với các vụ kiện bán phá giá; rào cản kỹ thuật về an toàn vệ sinh thực phẩm,... Cùng với đó là những khó khăn, thách thức từ chính trong nội tại của nền sản xuất nông nghiệp cả nước nói chung và ĐBSCL nói riêng, như: chính sách quy hoạch vùng và liên vùng; chính sách về xây dựng thương hiệu sản phẩm nông sản chưa triển khai mạnh; xây dựng chuỗi tiêu thụ, xúc tiến thương mại chưa hiệu quả; tập quán sản xuất nhỏ lẻ tự phát, mức độ khắc phục còn chậm.
Trong đó, riêng hệ thống ngân hàng, việc mở rộng mạng lưới tới vùng sâu, vùng xa cũng còn những hạn chế; thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tài sản bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm là nhiệm vụ phải tuân thủ song quá trình kiến nghị, cải tiến các thủ tục, quy trình này còn diễn ra chưa như mong muốn; sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách còn có những bất cập. Vì vậy, so với tiềm năng và thế mạnh của vùng thì những giá trị xuất khẩu nông sản của vùng còn chưa tương xứng tiềm năng, chỉ chiếm khoảng 10% so với tổng giá trị các mặt hàng xuất khẩu của vùng.
Theo TS Vũ Như Thăng, Viện trưởng Viện chiến lược và chính sách, Bộ Tài chính, hoạt động tín dụng xuất khẩu hiện còn có vướng mắc bởi các chính sách tín dụng xuất khẩu đã chú trọng đến tính an toàn trong giám sát hoạt động tài chính ngân hàng nên số lượng doanh nghiệp có thể đáp ứng được yêu cầu cấp vốn cũng không nhiều; việc hạn chế mức vốn tối đa cho vay cũng là yếu tố gây khó khăn trong việc mở rộng hoạt động tín dụng mới. Vì vậy, nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của chính sách tín dụng xuất khẩu tại vùng ĐBSCL có thể xem xét một số giải pháp, như: nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng để hạn chế bớt rủi ro cho hoạt động tín dụng xuất khẩu; cần có chính sách phân loại khách hàng để có chính sách áp dụng phù hợp; xây dựng quy trình quản lý, định giá tài sản hình thành từ vốn vay trong một số trường hợp đặc thù;…
Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, Võ Thành Hạo cũng cho rằng, hiện ĐBSCL hình thành nên một số mô hình liên kết sản xuất đã và đang phát huy hiệu quả. Trong đó, vốn tín dụng ngân hàng đóng góp một vai trò quan trọng. Riêng tỉnh Bến Tre, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm tới 70% tổng dư nợ cho vay trên địa bàn. Trong đó, cây dừa được coi là một trong những mặt hàng chủ lực và là một thế mạnh kinh tế của địa phương. Tuy nhiên, mặt hàng này vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng, vì vậy, ông Hạo cũng bày tỏ mong muốn ngành ngân hàng thời gian tới tiếp tục đầu tư mạnh hơn vào mặt hàng cây dừa của tỉnh.
Chỉ ra những nguyên nhân khiến chính sách tín dụng cho khu vực ĐBSCL vẫn chưa phát huy hiệu quả như mong đợi, Phó Vụ trưởng Vụ tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), Võ Minh Tuấn cho rằng, về tổng thể, tín dụng cho nông nghiệp vẫn đối diện nhiều khó khăn. Huy động vốn trên địa bàn chỉ đáp ứng gần 70% nhu cầu nguồn lực dành cho nông nghiệp đòi hỏi các ngân hàng phải chủ động điều động vốn từ các địa phương khác. Đầu tư tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong khi nguồn lực Nhà nước dành để xử lý rủi ro cho nông nghiệp còn thấp, hoạt động bảo hiểm nông nghiệp tuy đã được triển khai thí điểm nhưng chưa được nhân rộng,… Do đó, để chính sách tín dụng cho vùng được phát huy tối đa hiệu quả đòi hỏi sự đột phá mới cả về cơ chế, chính sách và hướng dẫn triển khai.
Theo bao nhan dan
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn