Tổng hội NN&PTNT cho biết, Việt Nam là một trong những quốc gia sử dụng thuốc BVTV nhiều và khó kiểm soát. Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng và cấm sử dụng ở Việt Nam hiện hành có 217 hoạt chất với 664 tên thương phẩm đăng ký phòng trừ cỏ dại trên các loại cây trồng và đất trồng trọt.
Thống kê của Bộ NN&PTNT cho thấy, khoảng 5 năm trở lại đây (2012-2017), trung bình mỗi năm Việt Nam chi khoảng 500-700 triệu USD để nhập khẩu nguyên liệu và thuốc trừ sâu từ Trung Quốc. Trong số này, 48% là thuốc trừ cỏ (19.000 tấn), còn thuốc trừ sâu và trừ bệnh chiếm khoảng 32% (16.400 tấn), ngoài ra còn một lượng thuốc điều hòa sinh trưởng khoảng 900 tấn.
PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, nguyên Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (BVTV- Bộ NN&PTNT) nhận định, thuốc trừ cỏ có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu không có tác động của các biện pháp BVTV, sâu bệnh hại và cỏ dại có thể làm giảm năng suất cây trồng 70-75%, trong đó riêng cỏ dại làm giảm năng suất 40-45%.
Trong số các loại thuốc BVTV, thuốc trừ cỏ hóa học được sử dụng với khối lượng nhiều và phổ biến nhất do chi phí thấp, hiệu lực sinh học cao. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ không sử dụng thuốc trừ cỏ hóa học phải chi phí gấp 20 lần cho phòng trừ cỏ dại so với sản xuất thông thường.
Việt Nam là một trong những quốc gia sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật
Theo ông Hồng, mặc dù pháp luật về quản lý thuốc trừ cỏ đã khá đầy đủ, đồng bộ, hài hòa với các nước trong khu vực và trên thế giới. Song sản xuất của Việt Nam còn nhỏ, manh mún, hiểu biết của người sử dụng thuốc còn hạn chế, nông dân hiện vẫn sử dụng thuốc dựa vào thói quen.
“Khảo sát cho thấy, có đến 40% nông dân vẫn mua và sử dụng thuốc BTVT theo thói quen, tự bắt bệnh, tự mua thuốc và sử dụng”, ông Hồng cho hay.
Trong khi đó, số lượng cửa hàng và người buôn bán thuốc còn quá nhiều, điều kiện kinh doanh còn lỏng lẻo, lực lượng thanh tra mỏng. Vai trò của chính quyền địa phương trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc buôn bán, sử dụng thuốc trên địa bàn quản lý chưa được quan tâm và phát huy đúng mức.
Lạm dụng thuốc trừ cỏ, sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, sử dụng sai mục đích, đặc biệt là trình độ nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm xã hội của người sử dụng thuốc trừ cỏ tại Việt Nam còn hạn chế là những nguyên nhân chính gây ra một số ảnh hưởng không mong muốn tới sức khoẻ cộng đồng và môi trường trong thời gian gần đây.
Thạc sỹ Nguyễn Văn Hưng, Chuyên viên cao cấp Vụ Nông nghiệp - Văn phòng Chính phủ kiến nghị, cần sớm xây dựng chiến lược sử dụng thuốc BVTV ở Việt Nam trong 10-15 năm tới nhằm giảm nguy cơ, giảm thiểu sử dụng thuốc BVTV.
Cần có lộ trình giảm lượng thuốc BVTV sử dụng từ nay đến 2020, giảm 30-40% mỗi năm, đặc biệt trên lúa, rau, chè, quả, vùng nông sản xuất khẩu; giảm số lượng hoạt chất trong danh mục 30-40%, số sản phẩm thương mại cho một hoạt chất; nâng tỷ lệ thuốc sinh học, thuốc thân thiện với môi trường lên 40-60% từ nay đến năm 2020.
Phải hạn chế đăng ký sản phẩm cũng như nhập khẩu thuốc BVTV; hạn chế đăng ký sản phẩm thuốc nhóm độc I, II có thời gian cách ly dài, có độc tính cao với ký sinh thiên địch và cá; tăng thuế nhập khẩu với các loại thuốc thuộc diện không khuyến khích sử dụng; định kỳ 3 năm/lần cần rà soát lại sản phẩm; loại bỏ các loại thuốc không hoặc chưa sử dụng trên thị trường, thuốc đã bộc lộ nhiều nhược điểm, hạn chế.
Cùng với việc thắt chặt phương thức quản lý để chọn lọc các sản phẩm thuốc trừ cỏ an toàn và phù hợp điều kiện canh tác của Việt Nam, cần tiếp tục tiến hành các hoạt động hướng dẫn, đào tạo nông dân sử dụng các sản phẩm thuốc một cách có trách nhiệm, an toàn và hiệu quả, thay đổi tập quán canh tác cũ là giải pháp bền vững và triệt để nhất.
Tuyết Nhung/anninhthudo.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn