Trong khi đó, theo thống kê sơ bộ của Hiệp hội chè Việt Nam, cả nước có khoảng 450 cơ sở, nhà máy chế biến chè (có đăng ký). Tuy nhiên, chỉ có khoảng 10% trong số các nhà máy này có vùng nguyên liệu riêng. Còn lại, phần lớn nguyên liệu của các nhà máy phụ thuộc vào thương lái thu gom từ nhiều nguồn khác nhau cho nên khó có thể xác định, truy xuất được nguồn gốc và dư lượng thuốc BVTV có trong nguyên liệu chè. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay là các địa phương cần nhanh chóng rà soát, tổ chức lại việc sản xuất và xuất khẩu chè, bảo đảm chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Khuyến cáo người dân hạn chế lạm dụng thuốc BVTV, tiến tới sản xuất chè theo hướng VietGAP để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm chè, đồng thời đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng khắt khe của các nhà nhập khẩu.