Nguyên do là sự giảm nhu cầu, cùng với việc thay đổi chính sách kiềm chế nhập khẩu ở các thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam, và không loại trừ áp lực từ việc Thái Lan xả kho gạo tồn kho. Châu Á là khu vực thị trường chính về gạo của Việt Nam, trong đó Trung Quốc chiếm 35%, nhưng mấy tháng qua lưu lượng gạo vào Trung Quốc, Philippines, Indonesia giảm. Thị trường Malyasia có tăng nhưng không bù lại sự thiếu hụt từ các khách hàng nói trên. Tình hình tương tự ở Châu Phi, dù có hai khách hàng mua tăng là Ghana (tăng 41%), Bờ Biển Ngà (tăng31%), song cũng không bù được sa sút từ các thị trường khác thuộc châu lục này.
Bù lại sự thiếu hụt về số lượng, giá bình quân năm nay khả quan, nên số lượng giảm 16,2%, song kim ngạch chỉ hụt 12,2%. Đóng góp vào sự sáng sủa về giá bình quân do tỷ lệ lượng gạo thơm, gạo nếp, gạo Japonica (dòng sản phẩm có nguồn gốc từ Nhật) tăng đáng kể, trong đó lượng gạo thơm sau 6 tháng chiếm tỷ trọng 31%.
Lời giải cho bài toán xuất khẩu gạo năm 2016 phải lấy “chất” để bù “lượng” |
Cho đến nay các đơn hàng lớn đã tất toán, đơn hàng mới chưa mở thầu, nghĩa là nhu cầu bên ngoài chưa lộ diện hết. Trong khi đó, hiện tượng thời tiết cực đoan hạn, mặn trên diện rộng đã ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất lúa gạo, nhất là vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, hàng trăm ngàn héc-ta lúa mùa của miền Bắc bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 1, một số phải gieo sạ lại... Tình hình trên báo hiệu sản lượng thóc năm nay sẽ khó khăn và nhu cầu gạo trong nước sẽ tăng. Có lẽ do nhận định trước tình hình này, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã hạ dự báo mức xuất khẩu gạo năm 2016 từ 6,5 triệu tấn xuống còn 5,7 triệu tấn – mức thấp nhất trong 8 năm năm gần đây, tuy vậy, con số này có thể còn xuống thấp hơn.
Thực sự không vui khi phải hạ dự báo chỉ tiêu xuất khẩu mặt hàng chủ lực này khi Nhà nước vẫn giữ nguyên mục tiêu năm 2016 về kinh tế - xã hội nói chung và thương mại nói riêng. Vì thế, lời giải cho bài toán xuất khẩu gạo năm 2016 phải lấy “chất” để bù “lượng”. Đó không chỉ là định hướng cho năm nay mà còn là định hướng chiến lược.
Trước tiên phải nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa gạo theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển nông nghiệp bền vững. Phải ưu tiên phát triển giống gạo chất lượng cao, hợp thị hiếu. Đổi mới quy trình bảo quản sau thu hoạch, nâng cao công suất, kỹ thuật chế biến để gạo thành phẩm tỷ lệ gãy vỡ thấp, độ bóng cao. Có nhiều thành phẩm chế biến từ gạo đưa thẳng vào hệ thống siêu thị. Với tỷ trọng gạo chất lượng cao áp đảo, đảm bảo về vệ sinh an toàn, sẽ là lời giải thuyết phục với bài toán giảm số lượng, nhưng không giảm kim ngạch cho hiện nay và mai sau.
Tiếp đó, đẩy nhanh tiến độ xây dựng thượng hiệu gạo Việt Nam theo Đề án “Phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 21/5/2015. Đây là đề án mang tầm quốc gia đầu tiên của Việt Nam đối với xây dựng thương hiệu nông sản, là tiền đề cho việc xây dựng thương hiệu cho các nông sản chủ lực khác. Mục tiêu của Đề án là xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam nhằm định vị giá trị, hình ảnh sản phẩm gạo Việt Nam, nâng cao sự nhận biết của các nhà sản xuất, nhập khẩu, phân phối và ngườitiêu dùng trong và ngoài nước nâng cao giá trị gia tăng, thị phần và sức cạnh tranh của sản phẩm gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Đồng thời, làm tốt công tác thị trường theo phương châm đa dạng hoá, tận dụng tối đa các ưu đãi theo những hiệp định thương mại tự do FTA vừa ký có liên quan tới mặt hàng này. Tiếp tục củng cố các khách hàng quen, yêu cầu chất lượng trung bình. Từng bước mở rộng các thị trường yêu cầu gạo cao cấp, khắt khe về an toàn vệ sinh. Tại mỗi thị trường cố gắng tiếp cận các kênh phân phối, không qua mối lái trung gian.
Trên cơ sở đó, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, bằng các phương tiện, trong mọi cơ hội, với sự phối hợp của các lực lượng trong và ngoài nước để nhiều bạn bè quốc tế biết tới vị hương vị của hạt gạo Việt Nam.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn