Trong tháng 7, khối lượng gạo xuất khẩu ước đạt 274.000 tấn với giá trị 120 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 7 tháng ước đạt 2,93 triệu tấn với 1,32 tỷ USD, giảm 18,4% về khối lượng và giảm 14,4% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Trung Quốc tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam với trên 35% thị phần. Thị trường đứng thứ hai nhập khẩu gạo Việt Nam là Indonesia với 11,6% thị phần. Các thị trường có giá trị tăng mạnh là Gana (41%) và Bờ Biển Ngà (31,3%).
Bên cạnh đó, nhiều thi ̣trường có giá trị giảm mạnh như Philippines (54,3%), Malaysia (59,2%) và Singapore (34,6%).
Về mặt hàng tiêu, khối lượng tiêu xuất khẩu 7 tháng đạt 122.000 tấn với 988 triệu USD, tăng 26% về khối lượng và tăng trên 9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá tiêu xuất khẩu bình quân giảm trên 13% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tương tự, giá càphê xuất khẩu trung bình giảm 15,6%. Do đó, tuy mặt hàng này tăng 38% về khối lượng (đạt 1,13 triệu tấn) nhưng chỉ tăng 18% về giá trị, đạt 1,98 tỷ USD. Giá cao su xuất khẩu cũng giảm gần 15%.
Qua 7 tháng , cao su xuất đạt 564.000 tấn, trị gia 705 triệu USD, tăng 8,8% về khối lượng nhưng giảm 7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Sản phẩm chè xuất khẩu đạt 69.000 tấn với 110 triệu USD, tăng 4,9% về khối lượng nhưng giảm 2,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Trong các nông sản xuất khẩu chính, hạt điều vẫn có sự tăng trưởng cả về sản lượng và giá trị. Khối lượng xuất khẩu hạt điều 7 tháng đạt 189.000 tấn, tăng 2,5% với kim ngạch 1,46 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ.
Ngoài ra, qua 7 tháng, giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 3,65 tỷ USD, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2015. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 3,98 tỷ USD, tăng 0,8%. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc là những thị trường nhập khẩu thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ hàng đầu của Việt Nam.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn