Nuôi tôm trong nhà bạt phủ nilon
Theo các chuyên gia, nuôi tôm vụ đông có những lợi thế như sản phẩm dễ bán hơn, giá bán cao hơn chính vụ (từ 70.000 – 150.000 đồng/kg), môi trường nuôi ít bị ô nhiễm hơn, dịch bệnh ít xảy ra hơn, co thể nuôi được 3 vụ/năm… Tuy nhiên nuôi tôm vụ đông cũng có nhiều khó khăn như nhiệt độ thấp nên người nuôi phải đầu tư cao hơn (làm nhà bạt) để ổn định nhiệt độ, thời gian nuôi dài hơn, quản lý môi trường khó khăn hơn.
Qua khảo sát của chúng tôi, khi nuôi tôm trong nhà bạt, nhiệt độ trong nhà thường cao hơn bên ngoài từ 5-15 độ, các hộ nuôi đều có hiệu quả rất cao vì giá tôm vụ đông thường cao gấp 1,5 – 2 lần giá chính vụ, lại rất dễ bán do khan hiếm.
Để bạn đọc có thêm căn cứ phát triển nuôi tôm vụ đông, tôi xin thông tin thêm một vài mô hình nuôi tôm hiệu quả cao tại các tỉnh miền Bắc trong năm 2014 và giới thiệu các biện pháp kỹ thuật được áp dụng tại các mô hình đó.
1. Hình thức nuôi được áp dụng phổ biến:
Có hai hình thức nuôi được đánh giá là đạt hiệu quả gồm nuôi đa cấp và nuôi 1 cấp
- Nuôi đa cấp: Giai đoạn 1 được ương trong bể ương trong nhà với thời gian 20 - 30 ngày với mật độ 500 - 1.000 con/m2, sau khi tôm đạt cỡ 3-4 cm/con, được san ra ao thương phẩm, sau 2 tháng nuôi tôm đạt cỡ 50-60 con/kg tiến hành thu hoạch. Mô hình nuôi đa cấp điển hình là Hợp tác xã Xuân Thành - Xuân Phổ - Nghi Xuân - Hà Tĩnh.
- Nuôi 1 cấp (mua giống thả trực tiếp xuống ao): Tôm nuôi trong nhà bạt cỡ giống P12 trở lên, thời gian nuôi từ 3-4 tháng tiến hành thu hoạch. Hộ ông Nguyễn Văn Dũng ở thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh và hộ ông Đỗ Quang Bốn ở Thái Thụy, Thái Bình là những thành công với cách nuôi này.
Ưu điểm nuôi tôm trong nhà bạt tránh được thời tiết bất lợi như mưa và gió làm giảm pH, nhiệt độ, độ mặn và gây phân tầng nước trong ao nuôi tôm.
2. Kỹ thuật được áp dụng trong nuôi tôm vụ đông
2.1 Chuẩn bị ao và nhà bạt
Ao có diện tích từ 1.000-3.000 m2, thiết kế hình vuông, được lót bạt hoặc bê tông hóa, có lắp đặt hệ thống xi-phông đáy. Do nuôi trong nhà bạt kín gió phải tăng cường hơn hệ thống sục khí đáy và quạt nước để đảm bảo hàm lượng oxy đầy đủ.
Xây dựng nhà bạt có hai loại:
- Kiểu chóp nón: Nhà bạt được xây dựng trên ao theo hình chóp nón, giữa ao có một trụ chính, xung quanh ao cắm trụ bê tông hoặc trụ thép cao khảng 20 cm so với mặt đất cách nhau khoảng 30 cm. Dây cáp đường kính Φ 3mm, được căng xung quanh ao đảm bảo độ dốc 5%, trên được phủ màng kính (nilon). Theo ông Đỗ Quang Bốn ở Thái Thụy, Thái Bình, việc xây dựng theo hình chóp nón có ưu điểm tránh được gió bão tốt hơn khi xây dựng theo hình ngôi nhà.
- Kiểu mái nhà: Nhà bạt được xây dựng gồm 2 mái, có diện tích 1,2 ha, xà nhà được làm bằng ống kẽm có đường kính Φ 60, cột đường kính Φ 70, cao mái từ 3,5-4m, dây cáp bọc nhựa trên mái được móc vào các cột thép cố định xung quanh. Trên mái được phủ bạt nilon và được bảo vệ bạt nilon bằng lưới. Theo ông Nguyễn Văn Dũng ở thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, xây dựng nhà như trên có ưu điểm giá thành thấp hơn nhà chóp nón và dễ thao tác hơn.
2.2. Đối tượng nuôi và mùa vụ nuôi
- Đối tượng nuôi tôm vụ đông: Tôm thẻ chân trắng vì thời gian nuôi ngắn
- Vụ nuôi: các hộ nuôi tôm vụ đông thường tính toán vụ nuôi để thu hoạch trước Tết nhằm bán được giá cao. Thời gian thả giống từ tháng 8-10 âm lịch, tức vào khoảng tháng 9-11 dương lịch.
2.3. Mật độ thả và thức ăn
Mật độ thả giống nuôi tôm vụ đông được các hộ thả nuôi cao hơn với chính vụ. Cụ thể như sau:
- Nuôi đa cấp: Thả mật độ trung bình 80 con/m2
- Nuôi 1 cấp: Thả 80-120 con/m2
- Giống tôm thẻ chân trắng: Được mua cơ sở được phép sản xuất theo quy định của Ngành Thủy sản, khỏe mạnh, cỡ tổi thiểu P12 trở lên, được cơ quan thú y cấp giấy kiểm dịch, được xét nghiệm âm tính với các bệnh trong danh mục các bệnh bắt buộc do cơ quan chuyên môn cấp, có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh.
- Thức ăn tôm chân trắng được mua có nguồn gốc rõ ràng, yêu cầu tỷ lệ đạm 32 - 38%, lipit 4-6%, độ ẩm <11%. Được mua tại cơ sở có đăng ký kinh doanh, đảm bảo chất lượng theo quy định, tiêu chuẩn thức ăn thủy sản. Ngoài ra, bổ sung thêm khoáng, vitamin C, E, dầu mực.
2.4. Quản lý môi trường ao nuôi
* Cơ sở nuôi của ông Bốn ở Thái Thụy, Thái Bình dùng chế phẩm sinh học để quản lý môi trường nước được sản xuất EM2 từ EM gốc. Cách làm như sau:
- Nguyên liệu: 1 lít mật đường hoặc 1 kg đường đỏ + 1 lít EM gốc + 45-50 lít nước ngọt sạch khuẩn + 2 kg cám gạo hoặc bột ngô + 10 g muối ăn;
- Cách tiến hành: cho vào thùng ủ kín 7 ngày
- Cách sử dụng: Chế phẩm EM2 được sử dụng định kỳ 3-7 ngày/lần tùy theo điều kiện màu nước ao nuôi để bón, liều lượng 50 lít EM2/1.000 m3 nước.
* Cơ sở nuôi của ông Dũng ở thành phố Móng Cái, Quảng Ninh Quản lý môi trường bằng công nghệ Nano định kỳ 7 ngày/lần, giữa hai lần dùng Nano sử dụng chế phẩm vi sinh
Quản lý nước: Định kỳ 3-5 ngày tiến hành xi phông đáy sau cấp thêm nước vào ao nuôi.
2.5. Biện pháp phòng trị bệnh
- Để tránh hiện tượng tôm sốc môi trường nước, ao cấp nước bổ sung được xây dựng trong nhà bạt.
- Định kỳ dùng Iotdin phòng bệnh 20 ngày/lần vào những tháng đầu sau giảm 15 ngày/lần. Liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Dùng chế phầm sinh học bón định kỳ 5-7 ngày/lần để gây màu nước và phân hủy khí độc (chú ý, nếu dùng chế phẩm sinh học thì không dùng Iotdin).
3. Đánh giá tình hình nuôi tôm vụ đông
- Tình hình dịch bệnh: Theo đánh giá của các hộ nuôi, nuôi tôm vụ đông ít dịch bệnh hơn nuôi chính vụ.
- Tốc độ sinh trưởng : Do vụ đông nhiệt độ xuống thấp nên thời gian nuôi kéo dài hơn so với chính vụ từ 1,5 đến 2 lần.
- Hệ số thức ăn: Theo tính toán của một số hộ đã nuôi thì hệ số thức ăn không cao hơn so với chính vụ khoảng 1,15-1,2kg/kg tôm.
- Hiệu quả kinh tế mang lại
Hiệu quả kinh tế mang lại được đánh giá qua khảo sát 2 hộ nuôi ông Nguyễn Văn Dũng tại TP Móng Cái, Quảng Ninh và hộ ông Đỗ Quang Bốn, Thái Thụy, Thái Bình như sau:
Hiệu quả kinh tế trên 1 ha đối với nuôi chính vụ và nuôi vụ đông của 2 hộ
ĐVT: triệu đồng
TT | Nội dung | Nguyễn Văn Dũng | Đỗ Quang Bốn | ||
Nuôi tôm chính vụ | Nuôi tôm vụ đông | Nuôi tôm chính vụ | Nuôi tôm vụ đông | ||
I | Đầu tư cơ bản |
|
|
|
|
1 | Khấu khao công trình và thiết bị | 30 | 56 | 82 | 90 |
2 | Khấu khao nhà bạt |
| 160 |
| 180 |
II | Chi phí sản xuất |
|
|
|
|
1 | Giống | 80 | 120 | 80 | 120 |
2 | Thức ăn | 409 | 461,5 | 407 | 495 |
3 | Công lao động | 37,5 | 90 | 40 | 80 |
4 | Điện, nhiên liệu | 36 | 50 | 47 | 90 |
5 | Thuốc, hóa chất, chế phẩm SH | 70,5 | 81,5 | 76 | 70,5 |
6 | Chi khác | 10,5 | 20 | 17 | 17,5 |
III | Tổng chi | 673,5 | 1.039 | 749 | 1.143 |
| Sản lượng (tấn) | 9 | 10,1 | 8,9 | 10,9 |
| Giá bán (1.000 /kg) | 175 | 250 | 175 | 250 |
IV | Tổng thu | 1.575,00 | 2.525,00 | 1.557,50 | 2.725,00 |
V | Lợi nhuận | 901,50 | 1.486,00 | 808,50 | 1.582,00 |
Theo bảng trên, tôm vụ đông của hộ ông Nguyễn Văn Dũng ở TP Móng Cái, Quảng Ninh lợi nhuận đạt 1.486,0 triệu đồng/ha, gấp 1,6 lần so với nuôi chính vụ (901,5 triệu đồng/ha). Hộ ông Đỗ Quang Bốn ở Thái Thụy, Thái Bình lợi nhuận đạt 1.582,0 triệu/ha đồng gấp gần 2 lần nuôi chính vụ 808,5 triệu đồng/ha.
Đánh giá về tỷ suất lợi nhuận (lợi nhuận/tổng chi), tỷ suất lợi nhuận của ông Dũng, Quảng Ninh: nuôi chính vụ 1,3 và nuôi vụ đông 1,4. Tỷ xuất lợi nhuận của ông Bốn - Thái Bình: nuôi chính vụ 1,1 và nuôi vụ đông 1,4.
4. Kết luận và kiến nghị
4.1. Kết luận
- Nuôi tôm vụ đông thời gian nuôi dài hơn chính vụ khoảng 1,5 lần, nhưng lợi nhuận/ha gấp 1,5-2 lần so với nuôi chính vụ.
- Đầu tư ban đầu nuôi tôm vụ đông cao hơn nuôi chính vụ, thấp nhất khoảng 500 triệu đồng/ha
- Tình hình dịch bệnh ít xảy ra hơn với nuôi chính vụ, đặc biệt các bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy không xảy ra
- Giá bán tôm vụ đông so với nuôi chính vụ cao gần 1,5 lần và dễ bán.
4.2. Kiến nghị
Tăng cường thông tin tuyên truyền, phổ biến kỹ thuật nuôi tôm vụ đông đối với các tỉnh ven biển phía Bắc.
Đề nghị có chính sách hỗ trợ hoặc cho vay vốn đối với những hộ có nhu cầu nuôi tôm vụ đông
Bộ nên quy định các cơ sở nuôi phải đáp ứng đủ điều kiện hạ tầng, cơ sở vật chất mới tiến hành thả nuôi để tránh tình hình dịch bệnh có thể xảy ra trên diện rộng.
Các đơn vị nghiên cứu cần xây dựng quy trình nuôi tôm vụ đông phù hợp các tỉnh miền Bắc.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn