8 lý do khiến Thái Lan xuất siêu mạnh sang Việt Nam
Thứ hai - 18/09/2017 06:17
Trong 8 tháng năm 2017, Việt Nam đã nhập siêu từ Thái Lan 3,5 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2016.
5 nhóm mặt hàng Việt Nam nhập khẩu lớn nhất từ Thái Lan trong 8 tháng năm 2017 là hàng điện gia dụng và linh kiện, rau quả, ôtô nguyên chiếc, xăng dầu các loại, chất dẻo nguyên liệu, linh kiện phụ tùng ôtô.
Trước tình hình nhập siêu tăng nhanh, cuối tuần qua, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh chủ trì cuộc họp với lãnh đạo nhiều đơn vị liên quan nhằm tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục nhập siêu thời gian qua, hướng tới mục tiêu cân bằng hơn trao đổi thương mại giữa hai nước.
Theo báo cáo của Vụ Thị trường châu Á – châu Phi, 5 nhóm mặt hàng nhập khẩu lớn nhất từ Thái Lan trong 8 tháng năm 2017, góp phần lớn vào giá trị nhập siêu từ Thái Lan là hàng điện gia dụng và linh kiện (646 triệu USD), rau quả (618 triệu USD), ôtô nguyên chiếc (432 triệu USD), xăng dầu các loại (406 triệu USD), chất dẻo nguyên liệu (403 triệu USD), linh kiện phụ tùng ôtô (340 triệu USD).
8 lý do chính
Lý giải về tình trạng nhập siêu tăng nhanh, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á - châu Phi, bà Lê Hoàng Anh đưa ra 8 lý do chủ yếu.
Thứ nhất, nhiều mặt hàng trong nước đã sản xuất được nhưng các doanh nghiệp vẫn nhập khẩu từ Thái Lan như các mặt hàng điện, điện tử gia dụng và linh kiện, rau quả, máy vi tính, sản phẩm nhựa, sắt thép, các sản phẩm gia dụng như chất tẩy rửa, mỹ phẩm, đồ dùng nhà bếp, sản phẩm nội thất...
Trong năm 2016, riêng tổng kim ngạch của 4 nhóm mặt hàng nhập khẩu lớn nhất từ Thái Lan là hàng điện gia dụng và linh kiện, linh kiện phụ tùng ô tô, ô tô nguyên chiếc, rau quả đã chiếm tới 30% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Thái Lan.
Thứ hai, Việt Nam đang thực hiện lộ trình giảm thuế theo cam kết trong Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), hiện Việt Nam đã xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với xấp xỉ 90% tổng số dòng thuế và sẽ xóa bỏ thuế đối với 98% số dòng thuế vào năm 2018.
Thứ ba, Thái Lan đã thiết lập được các kênh phân phối vững chắc và đang tiếp tục mở rộng tại Việt Nam. Các tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Thái Lan như Central Group, TCC Group đã tiến hành mua bán, sáp nhập các chuỗi bán lẻ tại Việt Nam thời gian qua là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Thái đưa trực tiếp hàng Thái tới người tiêu dùng Việt Nam.
Thứ tư, thực tế, người tiêu dùng Việt Nam vẫn có tâm lý ưa chuộng hàng Thái Lan, cả về giá cả, mẫu mã và chất lượng, đặc biệt là các mặt hàng điện, điện tử, sản phẩm gia dụng, hoa quả và hàng tiêu dùng khác.
Thứ năm, Chính phủ Thái Lan dành ngân sách khá lớn cho việc triển khai với quy mô lớn và có hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Việt Nam trong thời gian qua. Hàng năm, có khoảng 12 đến 20 hội chợ hàng Thái được Bộ Thương mại Thái Lan tổ chức tại Hà Nội, Tp.HCM và các tỉnh/thành phố khác.
Thứ sáu, nhiều mặt hàng nhập khẩu từ Thái Lan thuộc nhóm cần nhập khẩu để phục vụ sản xuất, tiêu dùng chiếm tới 50% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Thái Lan, gồm có: máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; xăng dầu các loại; chất dẻo nguyên liệu; hóa chất; nguyên phụ liệu dệt may, da giầy; vải các loại; giấy các loại; xơ, sợi dệt các loại; thức ăn gia súc và nguyên liệu...
Thứ bảy, các hoạt động mở rộng đầu tư của doanh nghiệp Thái Lan tại Việt Nam cũng dẫn tới việc tăng nhập khẩu các mặt hàng phục vụ sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam.
Thứ tám, do trước đây, nhiều mặt hàng tiêu dùng chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc, nay chuyển sang nhập khẩu từ Thái Lan do người tiêu dùng đánh giá tốt hàng Thái Lan so với hàng Trung Quốc và do hàng Thái Lan được hưởng ưu đãi thuế theo hiệp định ATIGA.
Nâng cao năng lực
Đánh giá về cán cân thương mại giữa Việt Nam và Thái Lan thời gian qua, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Dương Duy Hưng cho rằng, dù nhập siêu từ Thái Lan nhưng cần có một cái nhìn khách quan hơn bởi “việc nhập siêu trong quá trình hội nhập là vấn đề bình thường”.
Trong khi đó, theo đề nghị của bà Lê Hoàng Anh, để giải quyết vấn đề nhập siêu cần tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý nhập khẩu theo quy định để đảm bảo chất lượng của các sản phẩm nhập khẩu từ Thái Lan đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường...
Bên cạnh đó, đề nghị hệ thống siêu thị do doanh nghiệp Thái Lan sở hữu tăng cường hỗ trợ giới thiệu, bán, tiêu thụ các sản phẩm của Việt Nam, hợp tác với các tập đoàn phân phối bán lẻ của Thái Lan (Central Group, TCC) để tổ chức Tuần hàng Việt Nam và Hội nghị kết nối mua hàng Việt Nam. Tiếp tục triển khai mạnh mẽ Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” cũng như các chương trình tuyên truyền, cổ vũ dùng hàng nội địa khác cho người tiêu dùng.
Tại thị trường trong nước, để có thể khẳng định chất lượng hàng Việt và có được niềm tin của người tiêu dùng, các đại biểu nhấn mạnh, chính các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, đưa ra các sản phẩm đáng ứng yêu cầu về chất lượng và mẫu mã với giá thành cạnh tranh để có thể cạnh tranh được với hàng Thái Lan...
Trên cơ sở một số đề xuất, kiến nghị của các đơn vị liên quan, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh đã chỉ đạo các đơn vị phải chủ động và quyết liệt triển khai thực hiện các biện pháp đã được xác định nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang Thái Lan, khắc phục và giảm dần tình trạng nhập siêu, hướng tới một cán cân thương mại giữa hai nước cân bằng hơn trong thời gian tới.
Liên quan đến ý kiến cần đưa ra hàng rào kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định, hàng rào kỹ thuật không phải để hạn chế nhập khẩu mà là để nâng cao chất lượng sản phẩm nội địa, nếu không chúng ta không bao giờ cạnh tranh được trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Nhấn mạnh đến vai trò của công tác phối hợp giữa Bộ Công Thương và các bộ ngành khác trong việc thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, xúc tiến thương mại, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng, hiện công tác này vẫn còn nhiều hạn chế nên cần khắc phục mạnh mẽ trong thời gian tới. “Cần xác định rằng, chúng ta làm không phải vì Bộ Công Thương mà vì cộng đồng doanh nghiệp, xã hội”.