Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: VGP/Đỗ Hương |
Tiếp sau Hội nghị phát triển ngành hàng lúa gạo khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tại An Giang do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp chỉ đạo, ngày 17/3, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức hội thảo “Rà soát thể chế chuỗi giá trị lúa gạo”.
Hội thảo tiếp tục tập trung xác định những rào cản và điểm nghẽn thể chế đối với tăng trưởng năng suất của ngành hàng lúa gạo cũng như đề xuất các khuyến nghị cải cách nhằm nâng cao chuỗi giá trị và thu nhập của người trồng lúa.
Theo đó, trong những năm gần đây, sản xuất lúa gạo nhìn chung vẫn ở quy mô nhỏ, manh mún trong khi nhu cầu tiêu thụ trong nước đang có xu hướng giảm dần. Người tiêu dùng đã chuyển sang tiêu thụ nhiều hơn các loại gạo ngon, chất lượng cao của Thái Lan và Campuchia.
Về thể chế, mặc dù Nghị định 42/NĐ-CP của Chính phủ quy định duy trì 3,8 triệu ha đất trồng lúa, tương đương 7,6 triệu ha đất canh tác (mỗi năm trồng 2 vụ). Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị định này trong thời gian qua được coi là “nửa vời” bởi rất ít địa phương cấp xã thực hiện và thậm chí từ chối chuyển đổi cây trồng, kéo theo cơ cấu cây trồng chậm thay đổi, hạn chế tăng năng suất nông nghiệp.
Cùng với đó, chính sách hạn điền vẫn còn nhiều bất cập, cấm nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định cũng như không bồi thường về đất đối với diện tích đất ngoài hạn mức đã và đang là một trong những “điểm nghẽn”, kìm hãm tích tụ ruộng đất để sản xuất lúa gạo theo quy mô lớn.
“Quyền tài sản về đất nông nghiệp bị hạn chế, thời hạn sử dụng không được xác định như đất ở nên nhiều nông dân không thể ‘vốn hóa’ đất của mình dù không có tranh chấp. Trong khi đó, đất nông nghiệp có thể bị thu hồi với giá trị thấp hơn giá thị trường đã kéo theo thị trường cung cầu đất trồng lúa bị hạn chế, không khuyến khích nông dân đầu tư lớn được”, ông Đặng Quang Vinh, đại diện CIEM, nêu quan điểm.
Về giống lúa, theo nhận định của CIEM, hiện không có rào cản thể chế về sử dụng giống lúa. Thị trường có rất nhiều giống đã dẫn đến vấn đề giống giả, kém chất lượng còn “đất sống”, gây thiệt hại đáng kể cho người trồng lúa.
Không những vậy, xuất khẩu gạo hiện là một sân chơi có rào cản gia nhập cao với nhiều quy định làm khó DN. Cùng với đó, việc Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) nắm giữ vị thế độc quyền trong xuất khẩu gạo đã tạo ra rào cản cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN xuất khẩu gạo.
“Thông tư 44/2010/TT-BCT quy định nộp bản sao hợp đồng trong đó có giá gạo xuất khẩu và báo cáo lượng thóc, lượng gạo có sẵn của DN. Còn VFA có quyền yêu cầu Sở Công Thương tỉnh xác minh lượng thóc, gạo đã báo cáo trong khi thương nhân xuất khẩu gạo còn phải báo cáo tiến độ thực hiện hợp đồng để VFA nắm bắt và sẽ không được xuất khẩu thấp hơn giá sàn. Đây là một trong những biểu hiện của rào cản thể chế, hạn chế đầu tư, sáng tạo và sản xuất quy mô nhỏ nhưng có giá trị của các DN khác”, ông Vinh nêu dẫn chứng.
Trong bối cảnh cầu lúa gạo đang giảm trong khi nguồn cung tăng, nhiều quốc gia phấn đấu tự túc và tham gia thị trường xuất khẩu như Ấn Độ, Myanmar, Campuchia… sẽ kéo theo nhiều hệ lụy xấu đối với ngành sản xuất lúa gạo trong nay mai.
Chính vì vậy, CIEM khuyến nghị, sản xuất lúa gạo trong thời gian tới phải tôn trọng quy luật thị trường, đặc biệt là trong phân bổ nguồn lực đất đai, lao động. Ngoài ra, phải nhận thức rõ hơn vai trò về quyền tài sản đất đai trong hoạt động kinh tế, trong đó có thị trường lúa gạo. Đây là nền tảng cho tín dụng, đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ, cho phát triển thị trường đất nông nghiệp, tích tụ đất đai và sản xuất quy mô lớn, chất lượng, năng suất cao.
“Phải chuyển đổi từ tư duy trọng cung sang tư duy trọng chất, coi trọng năng suất lao động và thu nhập của người trồng lúa. An ninh lương thực không chỉ là sản lượng mà còn phải là dinh dưỡng đầy đủ và đa dạng. Quan trọng hơn là chất lượng gạo, giá trị và thu nhập. Có như vậy, chuỗi giá trị lúa gạo, từ sản xuất đến thương mại mới thực sự cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh”.
Theo Đỗ Hương/baochinhphu.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn