Công khai minh bạch chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2018 để dân giám sát
Thực hiện Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 2668/QĐ-BCT ngày 29 tháng 8 năm 2019 về việc kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2018 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Đoàn kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2018 của EVN (Đoàn kiểm tra) bao gồm đại diện: Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, Đoàn kiểm tra đã kiểm tra thực tế tại Công ty mẹ - EVN và một số đơn vị thành viên của EVN.
Tại buổi công bố ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Điều tiết Điện lực, Bộ Công Thương cho biết, giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2018 là 1.727,41 đ/kWh, tăng 3,58% so với năm 2017.
Tổng chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2018 là 332.284,64 tỷ đồng bao gồm chi phí sản xuất kinh doanh điện của các khâu phát điện, truyền tải điện, phân phối - bán lẻ điện và phụ trợ - quản lý ngành.
Trong đó, tổng chi phí khâu phát điện là 255.679,98 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phát điện theo điện thương phẩm là 1.329,17 đ/kWh.
Giải thích lí do vì sao chi phí khâu phát điện năm 2018 tăng so với năm 2017, ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Điều tiết Điện lực, Bộ Công Thương cho hay, năm 2018, tổng lượng nước về hồ chứa thủy điện đạt khoảng 365 tỷ m3, thấp hơn khoảng 12 tỷ m3 so với năm 2017, do đó, sản lượng điện từ thủy điện năm 2018 thấp hơn năm 2017, sản lượng điện huy động từ các nguồn điện khác như nhiệt điện than, tua bin khí, năng lượng tái tạo… cao hơn so với 2017.
Bên cạnh đó, giá than nhập khẩu tăng làm tăng chi phí mua điện từ các nhà máy điện sử dụng than nhập khẩu như Formosa Đồng Nai, Formosa Hà Tĩnh và Duyên Hải 3. Giá dầu tăng cũng đã làm tăng chi phí mua điện khi huy động các nhà máy nhiệt điện chạy dầu. Về tỷ giá, tỷ giá đô la Mỹ bình quân năm 2018 tăng 1,37% so với năm 2017. Tỷ giá tăng làm tăng chi phí mua điện từ các nguồn điện có giá mua theo hợp đồng bằng USD hoặc giá mua nhiên liệu bằng USD như các nhà máy nhiệt điện khí, nhiệt điện than sử dụng than nhập khẩu (như cụm các nhà máy điện Phú Mỹ EVN, Phú Mỹ BOT, Nhơn Trạch 1&2, Bà Rịa, Cà Mau 1&2, Formosa Đồng Nai, Formosa Hà Tĩnh, Duyên Hải 3, Cần Đơn, nhập khẩu điện từ Trung Quốc, Lào) và các nhà máy sử dụng năng lượng tái tạo khác.
Thêm vào đó, tổng chi phí khâu truyền tải điện bao gồm khoản phân bổ số dư chênh lệch tỷ giá chưa được tính vào giá thành điện tại 31/12/2015 của Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia với giá trị phân bổ năm 2018 là 1.828,22 tỷ đồng. Tổng chi phí khâu phân phối - bán lẻ điện là 55.590,90 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phân phối - bán lẻ điện theo điện thương phẩm là 288,99 đ/kWh. Tổng chi phí khâu phụ trợ - quản lý ngành là 1.322,81 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phụ trợ - quản lý ngành theo điện thương phẩm là 6,88 đ/kWh.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Điều tiết Điện lực báo cáo tại cuộc họp
Đối với doanh thu bán điện của EVN và kết quả sản xuất kinh doanh điện 2018, ông Nguyễn Anh Tuấn cho biết, sản lượng điện thương phẩm thực hiện năm 2018 là 192,36 tỷ kWh, tăng 10,14% so với năm 2017. Doanh thu bán điện năm 2018 là 332.983,34 tỷ đồng, tăng 14,84% so với năm 2017. Giá bán điện thương phẩm bình quân thực hiện năm 2018 là 1.731,04 đ/kWh, tăng 4,3% so với năm 2017. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh điện năm 2018 của EVN lãi 698,701 tỷ đồng, tương ứng tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm 2018 là 0,47%.
Trong khi đó, các khoản chi phí như tỉ giá chưa tính vào giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2018. Cụ thể, do năm 2018 không điều chỉnh giá điện nên hai khoản chênh lệch tỷ giá này với tổng giá trị khoảng 3.090,9 tỷ đồng được treo lại và chưa tính vào giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2018.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, tình hình cung cấp điện, vận hành hệ thống điện quốc gia năm 2019 là ổn định, đảm bảo đáp ứng đủ điện cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như các nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân; đặc biệt đã không phải thực hiện điều hoà, tiết giảm điện trên phạm vi cả nước. Tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu hệ thống điện quốc năm 2019 ước đạt 239,739 tỷ kWh, tăng trưởng 8,93% so với năm 2018.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng tại buổi công bố
Tại buổi công bố, Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng cho biết, để các đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể đảm bảo cung ứng điện cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân năm 2020, ngày 16/12/2019, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 3733/QĐ-BCT phê duyệt Kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện quốc gia năm 2020. Theo đó, dự báo năm 2020, sản lượng điện sản xuất và mua toàn quốc theo phương án cơ sở là 261,456 tỷ kWh, tăng 9,1% so với năm 2019, bám sát mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội năm 2020 đã được Chính phủ báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV.
Bộ Công Thương đánh giá năm 2020 là năm xuất hiện nhiều yếu tố bất lợi, gây khó khăn cho việc cung cấp điện, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do tình hình thủy văn không thuận lợi, cực đoan và một số công trình điện chậm tiến độ vào vận hành…
Trong điều kiện tình hình hạn hán xuất hiện ở nhiều khu vực từ năm 2019 sang năm 2020, Bộ Công Thương sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc điều tiết các hồ chứa thủy điện, đảm bảo sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nhất nguồn nước, tập trung vào các giải pháp cơ bản như chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đầu tư hệ thống bơm tưới hiệu quả và các địa phương cần chủ động thực hiện các giải pháp tích nước để giảm sự phụ thuộc vào việc xả nước từ các hồ thủy điện.
Để đảm bảo cung cấp điện năm 2020, tại Quyết định số 3733/QĐ-BCT, Bộ Công Thương đã giao nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, và các đơn vị liên quan trong việc đảm bảo cung cấp đủ nhiên liệu than, khí, dầu.
Bộ Công Thương cũng đã giao các đơn vị phát điện phải thường xuyên kiểm tra, củng cố các thiết bị của các nhà máy điện đảm bảo nâng cao độ tin cậy vận hành, nâng cao khả năng phát điện; chủ động xây dựng kế hoạch chuẩn bị nhiên liệu (than, khí, dầu) để đảm bảo cung cấp đủ cho nhu cầu phát điện các nhà máy điện. Bộ Công Thương cũng yêu cầu các đơn vị phát điện chủ động chuẩn bị nguồn nhiện liệu than bao gồm cả phương án sử dụng than trộn theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Công Thương sẽ thường xuyên thực hiện giám sát, đốc thúc các đơn vị thực hiện các nhiệm vụ đã được giao, đảm bảo khả năng cung cấp điện cho năm 2020 và tạo tiền đề chuẩn bị cho các năm tiếp theo.
Đối với công tác quản lý nhu cầu điện và sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả, Bộ Công Thương đã chỉ đạo EVN, các Tổng công ty Điện lực và Công ty Điện lực đẩy mạnh thực hiện các chương trình quản lý nhu cầu điện, điều chỉnh phụ tải điện, sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả để giảm nhu cầu phụ tải điện vào giờ cao điểm của hệ thống điện, góp phần đảm bảo cung cấp điện ổn định, tin cậy cho hệ thống điện quốc gia và hệ thống điện khu vực.
Trong năm 2020, Bộ Công Thương sẽ xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị thay thế Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 07 tháng 8 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường tiết kiệm điện trong phạm vi cả nước.
“Trong năm 2020, chúng ta cơ bản sẽ đáp ứng được điện cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2021 đến 2025, chúng ta chắc chắn sẽ đối mặt với giai đoạn khó khăn, có những năm có thể thiếu lên đến 7-8 tỷ Kw điện. Nếu từ nay, chúng ta tích cực áp dụng những giải pháp mà Bộ Công Thương đã báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ như đẩy nhanh các dự án chậm tiến độ, tích cực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, tích cực trao đổi điện năng với các nước trong khu vực, phát triển mạnh mẽ hơn nữa năng lượng tái tạo… thì khả năng chúng ta sẽ đáp ứng đủ điện cho kinh tế, xã hội kể cả trong những năm khó khăn nhất như năm 2022-2023”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn