Tuy nhiên, theo các chuyên gia, gạo Việt Nam xuất khẩu nhiều nhưng trị giá thu được không cao, đa phần sản phẩm chưa có thương hiệu, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường.
Nhiều rào cản
Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết, gạo là mặt hàng lương thực thiết yếu đồng thời cũng là mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam với kim ngạch trên 2 tỷ USD/năm. Trong những năm gần đây, xuất khẩu gạo của Việt Nam đang có giai đoạn chuyển đổi theo hướng mới. Trong đó, thị trường XK tại một số nước giảm sản lượng và đòi hỏi cao về chất lượng. Trong giai đoạn 2010-2016 thị phần gạo Việt Nam chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo XK toàn thế giới, với thị trường tới 150 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Dù sản xuất lúa gạo có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn bất cập, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu thị trường trong khi diễn biến thị trường gạo quốc tế ngày càng phức tạp. Cụ thể các nước nhập khẩu đang tiến tới tự túc lương thực đồng thời đưa ra nhiều rào cản thương mại gây khó khăn cho sản phẩm gạo thâm nhập.
Tương tự, đại diện Công ty Vinafood 1 cho rằng, năng suất lúa Việt Nam khoảng 5,3 tấn/ha, trong khi Thái Lan chỉ khoảng 2,8 tấn/ha, tuy nhiên, trị giá xuất khẩu thu được của họ lại cao hơn nhiều so với Việt Nam, các thương hiệu gạo của Thái Lan tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Trong khi đó đa phần các thương hiệu gạo Việt Nam không được người tiêu dùng biết tới. Bên cạnh đó, việc tập trung vào một số chủng loại gạo mang lại giá trị cao cho sản xuất cũng như đáp ứng được nhu cầu các thị trường trọng điểm là điều cần thiết, thực tế hiện nay chúng ta đang có quá nhiều chủng loại gạo.
Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch HĐQT - Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Intimex cho rằng, hiện nay, thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam là các nước châu Á và châu Phi. Riêng Trung Quốc chiếm tới khoảng 40% lượng XK. Theo đánh giá của các DN XK, gạo trắng cấp thấp của Việt Nam rất khó cạnh tranh giá với các nước khác, trong khi đó các loại gạo thơm và nhất là gạo nếp lại được thị trường này rất ưa chuộng, do vậy, DN cần phải tận dụng những lợi thế thị trường cũng như sự hỗ trợ từ Chính phủ trong đối thoại thương mại và các hiệp định thương mại ký kết với Trung Quốc để tăng hạn ngạch xuất khẩu.
Chuyển đổi cơ cấu XK
Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành hàng gạo, Bộ Công Thương đã xây dựng Chiến lược phát triển thị trường XK gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam được điều chỉnh phù hợp với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu; trong đó, đến năm 2020, thị trường châu Á chiếm tỷ trọng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo, thị trường châu Phi chiếm khoảng 22%, thị trường châu Mỹ chiếm 8%, thị trường châu Âu chiếm 5%. Đến năm 2030, thị trường châu Á chiếm khoảng 50%, thị trường châu Phi chiếm 25%, thị trường châu Mỹ chiếm 10%, thị trường châu Âu chiếm khoảng 6%...
Trong giai đoạn 2017-2020, Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu gạo hàng năm khoảng 4,5-5 triệu tấn, giá trị bình quân đạt 2,2-2,3 tỷ USD/năm, giảm dần lượng gạo hàng hóa và tăng giá trị xuất khẩu.
Theo Bộ Công Thương, cần đa dạng hóa, giảm phụ thuộc vào một số thị trường nhất định, khai thác cơ hội, tiềm năng, lợi thế từ các hiệp định thương mại FTA, các cam kết quốc tế. Thị trường nhập khẩu gạo tập trung chủ yếu là châu Á, bao gồm Trung Đông (chiếm hơn 71%) và châu Phi (15,3%), còn thị trường truyền thống Philippines với nhu cầu khởi điểm khoảng 350.000 tấn/năm, nằm trong khối ASEAN. Vì vậy, các DN cần phải có sự chuẩn bị với những thay đổi của thị trường, biết tận dụng lợi thế cạnh tranh nhờ giao dịch nội khối ASEAN để giữ vững thị trường gần này.
Bên cạnh đó, nhiều DN cũng cho rằng, để nâng cao chất lượng lúa gạo thì việc phát triển cánh đồng lớn, liên kết chặt chẽ giữa người nông dân, DN sản xuất, xuất khẩu là điểm mấu chốt quan trọng để nâng chất lượng gạo xuất khẩu, đáp ứng được các đơn hàng mà đối tác đặt hàng.
Ông Phạm Thái Bình, Tổng giám đốc Công ty CP Nông nghiệp công nghiệp công nghệ cao Trung An cho biết, thực tiễn đã chứng minh từ năm 2011 đến nay, kể từ khi có các thương nhân xây dựng vùng nguyên liệu lúa, DN liên kết với nông dân gắn sản xuất với tiêu thụ thì năm 2012 Việt Nam đã có quyền tuyên bố với các thương nhân nhập khẩu gạo nước ngoài rằng “Việt Nam sẵn sàng cung cấp gạo cho các nước với chất lượng cao, gạo đồng nhất chỉ 1 loại giống” và cũng từ đó các nhà nhập khẩu gạo các nước phải trả thêm 50-80 USD/tấn gạo đồng nhất nêu trên.
Tuy nhiên, trên thực tế, các năm kế tiếp nhiều loại gạo đồng nhất, thơm, sạch của Việt Nam được nhiều nhà nhập khẩu đặt hàng. Đơn cử ngay trong năm 2017, nhiều loại gạo đang được các nhà nhập khẩu yêu cầu nhưng các thương nhân Việt Nam lại không có hàng để bán. Tất cả thành quả nêu trên và bất cập không có hàng bán đều xuất phát từ việc xây dựng nguồn nguyên liệu lúa.
“Các thương nhân xây dựng được nhiều vùng nguyên liệu lúa với quy trình canh tác sạch thì thị trường tiêu thụ có ngay từ thời điểm gieo cấy chứ chưa cần phải đi xúc tiến hoặc tìm kiếm thị trường. Còn thương nhân và nông dân không xây dựng vùng nguyên liệu thì dù nhà nước có chi ra hỗ trợ hàng ngàn tỷ đồng để đi xúc tiến thương mại thì gạo Việt vẫn không bán được hoặc nếu có bán được thì giá sẽ thấp, tiêu thụ cũng không phải dễ dàng”, ông Bình phân tích.
Mặt khác, khó khăn của DN không phải là đầu ra mà chính là nguồn cung cấp trong nước có thể bị thiếu hụt, giá cao. Do đó, các nhà quản lý khuyên DN chỉ nên ký hợp đồng khi đã có gạo sẵn trong kho để tránh gặp rủi ro về giá.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn