“Làm thế nào để quản lý tốt thuốc BVTVT” cũng là một trong những chủ đề được các chuyên gia, Nhà quản lý đưa ra bàn luận tại Tọa đàm “Nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng thuốc BVTV - Định hướng và lộ trình thực hiện” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức mới đây tại Hà Nội.
Tọa đàm tập trung vào ba chủ đề chính: Những khó khăn và thách thức trong quản lý thuốc BVTV; Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhìn từ việc loại bỏ các hoạt chất thuốc BVTV độc hại; Sử dụng thuốc BVTV có trách nhiệm vì nền nông nghiệp phát triển bền vững.
Tồn tại những văn bản pháp luật không phù hợp
Đánh giá về hệ thống văn bản pháp luật BVTV trong nước hiện nay, ông Nguyễn Vinh Hà, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết: Hệ thống văn bản pháp luật về BVTV ở nước ta hiện nay đã thể chế hóa được tất cả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về BVTV, kiểm dịch thực vật và quản lý thuốc BVTV. Tuy nhiên, ông Hà khẳng định thuốc BVTV là hàng hóa đặc biệt cần được kiểm soát chặt chẽ.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội chỉ ra bốn thách thức lớn đối với quá trình quản lý thuốc BVTV hiện nay: Một số quy định về quản lý, kinh doanh và sản xuất thuốc BVTV đã bắt đầu lỗi thời, chưa phù hợp yêu cầu thực tiễn; danh mục thuốc BVTV hiện nay cũng còn mất cân đối, chủ yếu là thuốc BVTV gắn với cây lương thực, trong đó cây lúa là chủ yếu còn các cây khác chưa được chú ý; vấn đề chính sách ưu tiên chưa rõ ràng, chưa hiệu quả đối với các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh sản xuất hay sử dụng thuốc BVTV có nồng độ sinh học thế hệ mới; hiện nay cũng chưa có quy trình sử dụng thuốc BVTV sinh học với sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Thuốc BVTV là hàng hóa đặc biệt cần được kiểm soát chặt chẽ.
Đồng tình với quan điểm của ông Hà, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Hoàng Trung cho biết: Một trong những vấn đề đang thiếu trong hành lang pháp lý của chúng ta hiện nay đó là trước biến đổi khí hậu mạnh mẽ phát sinh, phát triển một số loại dịch bệnh mới nhưng chưa có loại thuốc nào để phòng trừ.
“Nếu phải theo quy trình quản lý chặt chẽ hiện nay thì chưa có một cơ chế mang tính chất áp dụng biện pháp khẩn cấp để có thuốc phù hợp, xử lý ngay những phát sinh đó”, ông Trung nói.
Mặt khác, ông Trung cũng cho biết: Hiện nay hệ thống thanh tra kèm theo cũng đang có những thay đổi lớn, dẫn tới thanh tra, kiểm tra kiểm soát được thuốc không đúng nguyên tắc đề ra, thuốc giả, kém chất lượng, thuốc nhập lậu... cũng là những thách thức đối với cơ quan quản lý thuốc BVTV.
Chia sẻ tại Tọa đàm, bà Lê Thị Khánh Hòa, Giám đốc Quản trị bền vững Công ty Syngenta Việt Nam; Trưởng nhóm Truyền thông CropLife Việt Nam cho biết: Để một sản phẩm thuốc BVTV hoàn toàn mới, được giới thiệu ra thị trường, thông thường các công ty phát triển phải mất 11 năm nghiên cứu và 283 triệu USD để thực hiện nghiên cứu và đáp ứng các quy trình về thử nghiệm, đánh giá an toàn theo chuẩn quốc tế nghiêm ngặt nhất. Với mức độ đầu tư rất lớn về thời gian và tài chính cho một sản phẩm công nghệ cao, tiên tiến, các công ty nghiên cứu thuốc BVTV cần một hệ thống pháp quy phù hợp, có thể dự đoán được và dựa trên cơ sở khoa học và nguyên tắc đánh giá rủi ro.
Theo bà Hòa, một hệ thống pháp lý hiệu quả cần phù hợp với mỗi quốc gia, đáp ứng các nhu cầu của xã hội và khuyến khích kết nối các cơ hội để đưa công nghệ đến với người sử dụng một cách có kiểm soát, một mặt vừa bảo đảm quản lý hiệu quả các rủi ro có thể có với sức khoẻ con người và môi trường, với tính an toàn của sản phẩm, mặt khác vẫn tạo bản lề để thúc đẩy đầu tư, khuyến khích đổi mới sản phẩm.
“Ngoài ra, chúng tôi cũng cho rằng, áp dụng các nguyên tắc đánh giá quản lý thuốc BVTV phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế cũng là một trong các điều kiện giúp hàng hóa nông sản của Việt Nam vượt qua được các rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế về mặt vệ sinh an toàn thực phẩm”, bà Hòa nói.
Hướng tới loại bỏ các hoạt chất thuốc BVTV độc hại
Tại Tọa đàm các đại biểu đều thống nhất với quan điểm để quản lý tốt thuốc BVTV thì một trong những biện pháp quan trọng hiện nay cần hướng tới loại bỏ những hoạt chất độc hại.
Ông Hoàng Trung cho biết: Thời gian qua, Cục BVTV đã rà soát, loại bỏ các loại thuốc BVTV nhóm một, nhóm hai. Đây là hai nhóm theo Luật quy định không được đưa vào danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam. Các loại thuốc thuộc nhóm ba, nhóm bốn đối với rau và chè theo phân loại cấp độ độc cũng rà soát, loại bỏ.
“Theo quy định của pháp luật đến 2020, chúng tôi cũng tiếp tục loại bỏ một hàm lượng hoạt chất theo đúng quy định. Một trong những quy định Cục đã thực hiện là xem xét loại bỏ các loại thuốc BVTV ảnh hưởng tới sức khỏe con người, ảnh hưởng tới môi trường, có hiệu lực sinh học thấp, các hoạt chất nằm trong phụ lục III của Công ước Rotterdam...”, ông Trung nói.
Về lộ trình, ông Trung cho biết, hiện Cục có cả hội đồng rà soát các hoạt chất. “Sau khi xác định rõ hoạt chất thì đưa ra lộ trình cụ thể: củng cố thông tin khoa học, đưa ra chứng cứ từ tổ chức quốc tế, cách thức các nước đang làm để hoàn thiện báo cáo khoa học gửi cho các tổ chức và doanh nghiệp tham khảo; sau đó tổ chức hội đồng tư vấn để xác định rõ các loại thuốc này có đầy đủ bằng chứng khoa học là ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường hay không, trên cơ sở đó trình Bộ ra quyết định loại bỏ và có lộ trình cụ thể để giảm tác động có hại cho các doanh nghiệp”, ông Trung nói.
Hướng tới loại bỏ chất độc hại trong thuốc BVTV là giải pháp để quản lý tốt vật tư này.
Khẳng định, việc xây dựng nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ thân thiện với môi trường và loại bỏ các loại thuốc BVTV độc hại là chủ trương, mục tiêu lớn của Đảng, Nhà nước, ông Nguyễn Vinh Hà đưa ra năm vấn đề mà cơ quan quản lý Nhà nước về thuốc BVTV trong thời gian tới cần phải làm: Một là cần tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung hoàn thiện thể chế phù hợp với điều kiện hiện nay. Hai là xây dựng danh mục thuốc BVTV an toàn, hiệu quả, thân thiện môi trường. Ba là xây dựng lộ trình loại bỏ thuốc BVTV một cách cụ thể, trước hết là rà soát loại bỏ thuốc BVTV có nồng độ độc hại cao. Thứ tư, đẩy mạnh công tác quản lý vật tư nông nghiệp từ nhập khẩu, sản xuất, buôn bán, sử dụng. Cuối cùng là cơ quan quản lý Nhà nước cần chủ trì, phối hợp với các đơn vị triển khai chuỗi sản xuất nhiều quy mô khác nhau, trên các đối tượng cây trồng khác nhau, cụ thể theo hướng khép kín, bảo đảm cung ứng tốt mục tiêu đầu vào, hoàn thiện sản phẩm, qua đó ban hành chính sách khuyến khích phát triển các chuỗi liên kết sản xuất trong nông nghiệp.
Tác giả bài viết: THANH TRÀ
Nguồn tin: nhandan.com.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn