Ảnh minh họa |
Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), trong những năm gần đây, diện tích trồng ngô của cả nước dao động khoảng hơn một triệu ha, tuy nhiên năng suất trung bình còn khá thấp, chỉ ở mức 4,6 triệu tấn/ha. Hằng năm, Việt Nam vẫn phải chi một lượng lớn ngoại tệ để nhập khẩu ngô hạt về phục vụ nhu cầu chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước.
Theo ông Trần Xuân Định, Cục phó Cục Trồng trọt, đó chính là mâu thuẫn nội tại của ngành trồng trọt, khi mà gạo thì xuất khẩu, thậm chí xuất khẩu khó khăn còn ngô lại nhập gần như chiếm già nửa về giá trị (trên 1,65 tỷ USD năm 2016) so với gạo xuất. Chỉ riêng trong năm 2016, Việt Nam đã nhập về 8,3 triệu tấn ngô. Điều này tạo ra áp lực rất lớn đối với nông dân trồng ngô trong nước.
Hiện nay, cây ngô vẫn là cây lương thực quan trọng. Với nhu cầu thực phẩm, thức ăn chăn nuôi ngày một tăng như hiện nay, việc có được nhiều hơn quyền chủ động về nguồn cung giúp bảo đảm an ninh lương thực, đồng thời tránh khỏi tình trạng bị phụ thuộc và thất thoát ngoại tệ. Bộ NN&PTNT định hướng duy trì diện tích canh tác như hiện tại, nhưng mạnh nâng cao giá trị và sản lượng trên mỗi đơn vị diện tích canh tác.
Theo ông Trần Xuân Định, năng suất ngô trung bình của Việt Nam còn đang ở mức rất thấp. Do điều kiện canh tác không thuận lợi, địa hình khó khăn, việc ứng dụng các giống mới kháng lại các tác nhân bất thuận sẽ giúp bảo đảm năng suất tiềm năng và nhờ đó nâng cao sản lượng và chất lượng ngô sau thu hoạch. Việc công nhận đưa một số giống ngô mới vào sản xuất từ năm 2015 bước đầu tạo ra các tín hiệu tích cực khi năng suất và thu nhập của bà con nông dân trồng ngô được cải thiện rõ rệt. Năm 2016, ước diện tích ngô biến đổi gen chiếm khoảng 10% tổng diện tích trồng ngô của cả nước.
Hình thành chuỗi giá trị khép kín trong sản xuất
Theo Báo cáo của Viện Chính sách và Phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ NN&PTNT), sản lượng ngô toàn cầu đang tăng trong những năm gần đây chủ yếu do năng suất trồng ngô được cải thiện khiến giá ngô thế giới trong những năm gần đây có xu hướng giảm.
Tại Việt Nam, năng suất ngô còn ở mức khá thấp so với thế giới và chỉ đủ đáp ứng khoảng 40-50% nhu cầu tiêu thụ trong nước. Thực tế này khiến Việt Nam luôn là nước nhập khẩu ngô trong thời gian qua. Một bất cập đóng góp vào xu hướng nhập khẩu ngày càng tăng đó là giá ngô nhập khẩu về Việt Nam thường thấp hơn so với giá ngô trong nước, trong khi chất lượng hạt lại tốt hơn.
Viện Chính sách và Phát triển nông nghiệp nông thôn dự đoán nhu cầu về thức ăn chăn nuôi của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Đến năm 2020, Việt Nam sẽ cần khoảng 9 triệu tấn ngô và sản xuất trong nước vẫn sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu. Đồng thời với quá trình hội nhập, thuế nhập khẩu đối với ngô sẽ có xu hướng giảm. Tất cả các nhân tố trên sẽ tạo áp lực rất lớn cho sản xuất trong nước.
Theo Viện Chính sách và Phát triển nông nghiệp nông thôn, để tăng sức cạnh tranh, vấn đề cốt lõi đó là nâng cao chất lượng sản xuất ngô đồng thời tổ chức sản xuất lại - giảm bớt can thiệp của quá nhiều tác nhân trung gian tham gia vào chuỗi giá trị. Mô hình tổ nhóm hợp tác xã kết nối trực tiếp với doanh nghiệp được đưa ra như một giải pháp quan trọng, trong đó nông dân liên kết sản xuất, doanh nghiệp trực tiếp hỗ trợ về phương tiện, giống, kỹ thuật canh tác và bảo đảm xử lý, bao tiêu sau thu hoạch.
Canh tác tiên tiến để nâng cao chất lượng và sản lượng
Ông Trần Xuân Định cho hay, Việt Nam nằm trong nhóm các nước có mức tiêu thụ ngô lớn nhất thế giới, với tỉ lệ tăng trưởng qua các năm khá cao khoảng hơn 12% - điều này thể hiện qua con số tăng trưởng nhập khẩu ngô qua các năm trong khi sản lượng ngô trong nước vẫn tăng đều.
Nhìn vào bức tranh thương mại ngô toàn cầu, hiện tại thị trường châu Mỹ đang là nơi xuất khẩu ngô chính sang châu Á, châu Phi và các khu vực khác. Đáng chú ý là mức độ nhập khẩu tại tất cả các châu lục đều tăng qua các năm và dự báo đến năm 2020, mức tiêu thụ ngô toàn cầu sẽ khoảng 1.074 triệu tấn (năm 2016 là 1.021 triệu tấn) trong đó châu Á và châu Phi sẽ tăng 20%. Với năng suất như hiện nay (năm 2016 thế giới sản xuất được khoảng 1.040 triệu tấn), đến năm 2050, sản xuất ngô thế giới sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu, đồng nghĩa với việc nguồn cung về ngô sẽ không còn dư thừa đề xuất khẩu sang các thị trường còn thiếu như châu Á, trong đó có Việt Nam.
Theo Tổ chức CropLife Việt Nam (một tổ chức quốc tế hoạt động theo hình thức phi lợi nhuận với phương châm ứng dụng khoa học vào nông nghiệp), nếu không sớm có các phương án để chủ động tốt hơn về sản xuất ngô nội địa, Việt Nam sẽ gặp khó khăn. Bài toán của Việt Nam và nhiều nước trồng ngô khác hiện nay đó là cần gia tăng năng suất trên diện tích sẵn có để gia tăng sản lượng.
Việt Nam đã đưa các giống ngô lai vào sản xuất từ những năm 1995 và tại thời điểm đó đã tạo ra cuộc cách mạng về tăng năng suất. Tuy nhiên cho đến nay, năng suất của các giống ngô lai thường đã đến mức tới hạn và đòi hỏi cần có các cải tiến mới, thông qua các tiến bộ về giống và phương pháp canh tác, đồng thời giảm chi phí đầu vào và các tác động tiêu cực lên môi trường.
Nhật Nam/ Báo Chính phủ
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn