Nông nghiệp: cần đổi mới tư duy và chính sách mang tính đột phá cao
Thứ sáu - 05/10/2018 09:53
Tại hội thảo “Phát triển nông thôn đồng bằng sông Cửu Long: từ thực tiễn đến chính sách” do Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM tổ chức sáng nay (5/10), các chuyên gia từ các trường đại học, viện nghiên cứu trong cả nước đã trao đổi nhiều vấn đề liên quan để giúp khu vực này có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đặc biệt là cần có những đổi mới căn bản về tư duy và hoạch định các chính sách phát triển mang tính đột phá cao.
Nông nghiệp Việt Nam đã đạt “ngưỡng phát triển tới hạn”
PGS. TS. Vũ Trọng Khải, nguyên hiệu trưởng Trường cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn II nhận định, trong suốt 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến khá dài. Nhưng hiện nay, những yếu tố tạo thành nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt “ngưỡng phát triển tới hạn”. Nền nông nghiệp nước ta tuy chỉ còn chiếm khoảng 18% GDP của nền kinh tế, nhưng vẫn phải sử dụng gần 50% lực lượng lao động xã hội và nuôi sống khoảng 70% dân cư; nông nghiệp vẫn lạc hậu, nông thôn vẫn nghèo, nông dân còn cực khổ; nông sản không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn được sản xuất, buôn bán.
Để tiếp tục phát triển có hiệu quả và bền vững cả về kinh tế - xã hội và môi trường, trước các cơ hội và thách thức to lớn của bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, trước các thách thức không lường trước được của tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu, theo PGS. TS. Vũ Trọng Khải, nông nghiệp Vệt Nam phải ứng dụng công nghệ cao, từ cung ứng giống và các loại vật tư, trang thiết bị đầu vào, đến canh tác, chăn nuôi, nuôi trồng, khai thác, đánh bắt, chế biến, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ nông sản trên thị trường trong và ngoài nước.
Nghiên cứu về sự “Phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long từ đầu thế kỷ XXI đến nay - thành tựu, hạn chế và khuyến nghị”, NCS. Huỳnh Tâm Sáng, Trường đại học Thủ Dầu Một nhận thấy, nông nghiệp từ lâu đã đóng vai trò quan trọng giúp phát triển kinh tế đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức. Vì vậy, nhìn nhận lại các chính sách phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long cùng những thành tựu và hạn chế là cần thiết.
NCS. Huỳnh Tâm Sáng cho rằng, trên cơ sở những thành tựu đã đạt được cùng tiềm năng và lợi thế phát triển nông nghiệp của vùng, trong thời gian tới nông nghiệp sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa khi đồng bằng sông Cửu Long giải quyết tốt các khó khăn chủ yếu: một là, sản xuất nhỏ lẻ, không đồng bộ, khó kết nối với thị trường trong và ngoài nước. Giao thông ở vùng sâu, vùng xa còn khó khăn; thông tin về thị trường hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân, khó tạo điều kiện liên kết chặt chẽ giữa người nông dân và doanh nghiệp trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm; hai là, nguồn lao động ở nông thôn đang có xu hướng giảm và “lão hóa” do lao động trẻ ở nông thôn có trình độ học vấn có xu hướng rời bỏ nông thôn, lao động phổ thông cũng di dân đến làm việc tại các thành phố lớn ngày càng tăng. Đây là lực cản trong phát triển nông nghiệp của vùng trong tương lai; ba là, đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm về nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực của quốc gia nhưng mức đầu tư cho vùng còn thấp. Do vậy, sản xuất nông nghiệp thiếu bảo đảm về điều kiện hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Công nghệ chế biến còn khá lạc hậu, giá thành còn cao, tỷ lệ hao hụt, thất thoát sau thu hoạch còn lớn. Trong điều kiện nguồn lực đồng bằng sôn Cửu Long còn hạn chế thì “một bộ phận nông dân và cán bộ vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ sự hỗ trợ của cấp trên, chưa thật sự quan tâm, chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng nông thôn mới”. Sự chậm trễ và chủ quan càng khiến những khó khăn càng thêm chồng chất.
Phải tạo ra các yếu tố mới cấu thành nông nghiệp công nghệ cao
Lấy kinh nghiệm của Hàn Quốc, TS. Lê Tùng Lâm, Trường đại học Sài Gòn cho rằng, Việt Nam và Hàn Quốc đều có điểm xuất phát là những quốc gia nông nghiệp. Thế nhưng, từ đầu thập niên 70 của thế kỉ XX, Hàn Quốc thực hiện Phong trào làng mới (Saemaul Undong), nền nông nghiệp phát triển nhanh chóng, góp phần tạo ra kỳ tích, đưa Hàn Quốc trở thành một trong số ít quốc gia hàng đầu châu Á. Trong khi đó, Việt Nam cũng đã tiến hành công cuộc đổi mới từ năm 1986, nền nông nghiệp của Việt Nam có sự chuyển biến nhưng vẫn chưa phát huy hết được những lợi thế của mình. Từ năm 2010, Việt Nam cũng bắt đầu thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm nâng cao đời sống của nông dân. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn.
Nhìn lại quá trình thực hiện Làng mới ở Hàn Quốc, TS. Lê Tùng Lâm nhận thấy vai trò rất lớn của Nhà nước đối với sự phát triển nền nông nghiệp Hàn Quốc. Sự thành công của phong trào Làng mới có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, thúc đẩy được sự phát triển của nông nghiệp, qua đó tạo ra sự tăng trưởng cân bằng giữa nông thôn và thành thị, giữa công nghiệp và nông nghiệp, và giữa các ngành nghề khác nhau. Quan trọng hơn nữa, phong trào này còn góp phần thay đổi tư duy, ý thức, quan điểm về giá trị, về thế giới của người dân Hàn Quốc, khiến họ tự tin hơn để tham gia hiệu quả hơn vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Ngày nay, Việt Nam đang trên đường phát triển mọi mặt. Trong đó, thực hiện mục tiêu chương trình xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ chiến lược. Để thực hiện thành công mục tiêu đó, Nhà nước cần phải tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo một cách thực sự hiệu quả trên nhiều lĩnh vực như: huy động nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới; xây dựng ý thức trách nhiệm cộng đồng trong nhân dân để thực hiện thành công chương trình nông thôn mới; điều tiết của nhà nước trong phân phối sản phẩm nông nghiệp và đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
PGS. TS. Vũ Trọng Khải cho rằng, trước hết, cần có những đổi mới căn bản về tư duy và hoạch định các chính sách phát triển mang tính đột phá cao. Đặc biệt là về đổi mới tư duy. Hiện nay người ta nói nhiều đến “Tái cơ cấu nền nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới” như là giải pháp phát triển mang tính quyết định.
Tái cấu trúc chỉ là sự sắp xếp lại các yếu tố cấu thành hiện có của một hệ thống (ở đây là nền nông nghiệp Việt Nam) sao cho hợp lý hơn để tiếp tục phát triển. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi và chỉ khi các yếu tố cấu thành của hệ thống đó còn nhiều “dư địa” phát triển. Nhưng hiện nay, các yếu tố cấu thành nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt đến “ngưỡng phát triển tới hạn”. Do vậy, phải tạo ra các yếu tố mới về chất cấu thành nên nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, cả trong sản xuất và quản trị, dẫn đến sự phát triển có hiệu quả và bền vững cả về kinh tế - xã hội và môi trường. Đó chính là tiến trình xây dựng lại nền nông nghiệp, chứ không phải là tái cấu trúc.
Mặt khác, tiến trình xây dựng lại nền nông nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ cao trong sản xuất và quản trị, là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của công cuộc xây dựng nông thôn mới. Cho nên, xây dựng lại nền nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới không phải là hai khái niệm đồng đẳng, không phải là hai nội dung cùng diễn tiến đồng thời và gắn kết với nhau. Nói cách khác, xây dựng nông thôn mới, mà thực chất là phát triển nông thôn toàn diện và bền vững, đã bao hàm nội dung của tiến trình xây dựng lại nền nông nghiệp dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ cao, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và trước các thách thức to lớn, khó lường của tình trạng biến đổi khí hậu.
Theo Khoahocphothong