|
Chăm sóc rau an toàn tại xã Nam Hồng (huyện Đông Anh, Hà Nội). Ảnh: Khánh Nguyên |
Chi phí lớn, lợi nhuận thấp
Ngày 28-1-2008, Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) chính thức được Bộ NN&PTNT ban hành. Sau hơn 9 năm triển khai, việc áp dụng tiêu chuẩn này gặp nhiều khó khăn, hầu hết mới dừng ở mô hình thí điểm. Theo Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Hồng Sơn, hiện chi phí sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP tương đối lớn (tăng 20-30% so với sản xuất thường), nhưng giá bán sản phẩm còn thấp nên không khuyến khích được nông dân ứng dụng rộng rãi. Ngoài ra, quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP rất phức tạp nên nông dân lúng túng, chưa quen với việc ghi chép sổ sách nhật ký đồng ruộng - trong khi đây là yêu cầu bắt buộc đối với vùng sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP.
Nói về những khó khăn, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã nông nghiệp xã Thanh Đa (huyện Phúc Thọ) Hoàng Văn Tùng cho biết: Năm 2012, được sự giúp đỡ của Sở NN&PTNT Hà Nội, xã thực hiện mô hình sản xuất rau theo tiêu chuẩn VietGAP với diện tích 10,8ha. Năm 2014, dự án kết thúc, từ đó đến nay, nông dân không mặn mà với rau VietGAP. Nguyên nhân do chi phí sản xuất theo tiêu chuẩn này cao hơn 20% so với các loại rau thông thường, nhưng chỉ khoảng 10% sản lượng rau được bán với giá trị thực cho siêu thị, cửa hàng tiện ích, còn lại phải bán như rau thường ngoài chợ. Ngoài ra, với quy định sau 2 năm phải xin cấp lại Giấy chứng nhận VietGAP với giá từ 20 đến 70 triệu đồng (tùy vào dòng sản phẩm đăng ký) cùng với lợi nhuận thấp nên hợp tác xã và nông dân không tiếp tục sản xuất theo mô hình này. Không chỉ khó khăn ở khâu sản xuất, quản lý, lưu thông sản phẩm nông nghiệp còn yếu kém; các cơ quan quản lý nhà nước chưa kiểm soát được nguồn gốc xuất xứ sản phẩm dẫn đến tình trạng mập mờ về chất lượng giữa sản xuất theo quy trình VietGAP và không VietGAP.
Hỗ trợ và giám sát chất lượng
Theo ông Hoàng Bá Nghị - Thành viên Ban chỉ đạo VietGAP trung ương, để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất nông nghiệp VietGAP, cần có sự phối hợp chặt chẽ của “4 nhà” trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, thời gian đầu cần sự hỗ trợ cơ bản của Nhà nước khi làm mô hình mẫu, xây dựng thương hiệu quốc gia, phát triển thị trường, sau đó nhân rộng trên toàn quốc. Các địa phương khi triển khai mô hình VietGAP nên lựa chọn những vùng sinh thái phù hợp để khai thác lợi thế điều kiện tự nhiên; tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết các hộ dân thành hợp tác xã, tổ hợp tác; khuyến khích và phát huy hiệu quả chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm, chính quyền địa phương cần phối hợp với hợp tác xã giám sát việc sản xuất của nông dân trên đồng ruộng từ khi nhập giống về trồng đến chăm sóc, thu hoạch, tiêu thụ... Mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ việc cấp Giấy chứng nhận VietGAP của các tổ chức chứng nhận, tránh tình trạng “cấp khống” cho các vùng sản xuất, tiềm ẩn nguy cơ bị trà trộn sản phẩm không rõ nguồn gốc khi tiêu thụ, dẫn tới tình trạng “con sâu làm rầu nồi canh”...
Về lâu dài, các bộ, ngành cần có chính sách phù hợp khuyến khích sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP. Giám đốc Công ty TNHH Vinagap Việt Nam Trần Mạnh Chiến cho rằng: Nhằm thúc đẩy áp dụng phương thức sản xuất VietGAP, Nhà nước nên hỗ trợ 30-50% chi phí ban đầu về giống, tập huấn kỹ thuật sản xuất, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm, xúc tiến thương mại... để đơn vị nhập khẩu và người tiêu dùng trong nước, nước ngoài dễ nhận biết, ủng hộ sản phẩm nông sản VietGAP của Việt Nam...
Quỳnh Dung/ Hà Nội Mới