Chăm sóc vườn cà phê của gia đình ông Bun.
Trong căn nhà ngói 7 gian vững chãi dưới chân núi, ông Bun kể cho tôi nghe về những tháng ngày đói khổ của người bản Noong Lào cách đây hơn một thập kỷ. Xưa kia, Noong Lào vốn là nơi ngụ cư của đồng bào Xá. Nhưng thung lũng hẹp này chẳng có nguồn nước nào đáng kể để họ có thể đảm bảo lấy nửa năm no ấm, tất tật trông chờ vào cây trồng trên nương.
Mưa thuận gió hoà thì còn có khả năng khắc phục an ninh lương thực bằng củ sắn, củ mài, củ nâu khi tháng ba - ngày tám. Gặp năm thiên tai, mất mùa thì coi như củ nâu cầm bữa - gốc chuối cầm hơi. Rồi sức chịu đựng cũng đến cái ngưỡng cuối cùng, người Xá rời đi định canh nơi khác, không một lời tạm biệt đất Noong Lào.
Tiếp quản vùng đất này, ban đầu bà con người Thái ở Chiềng Pha cũng chỉ coi Noong Lào là mảnh đất nương cằn để làm thêm bát cơm, củ sắn. Thế rồi đất chật, người đông, dân kéo dần ra lập bản, bám vào sườn núi Pu Ta Cao và Pu Tếnh Hươn mà dựng nhà, lập nghiệp.
Dẫu chăm chỉ làm ăn, chịu khó khai hoang, tăng gia trồng trọt nhưng do địa hình cao, dốc nên dù có tổng diện tích gần 100 ha đất, cả bản cũng chẳng thể nào có lấy một mét đất ruộng. Người Thái Noong Lào lại tiếp tục sự nghiệp “dệt hay” (làm nương) thuần khiết như người Xá khi xưa, no-đói tại trời...
Noong Lào hôm nay ngợp màu xanh của chè và cà phê; thấp thoáng dưới các sườn đồi là những ngôi nhà lợp ngói to, rộng, ấm áp tiếng tivi, loa đài. “Hơn 10 năm trước, Nhà nước đưa cây cà phê, cây chè vào đây vận động chúng tôi trồng. Đang đói nghèo, thấy bảo cây nào cũng sau 3-5 năm mới có thu hoạch nên dù cán bộ vận động đến mỏi mồm dân vẫn lắc đầu quầy quậy.
Khi ấy tôi cũng lo lắm, chỉ lo miếng ăn trong nhà mà cái bồ thóc đã đầy bao giờ đâu. 7 đứa con như 7 cái tàu há mồm, chúng chén một ngày tới cả yến lương thực, bớt đi ha đất nương là bớt đi miếng ăn của con cái mình. Thêm vào đó, cây chè ở đất này từng phát triển mạnh trong thập kỷ 80 trước rồi lại chìm xuồng, phải phá chè để làm nương cho khỏi đói. Nhưng tôi lại nghĩ, chả lẽ Nhà nước lại muốn dân nghèo ? Vậy Là tôi vận đông được hơn 10 hộ mạnh dạn tham gia trồng cây công nghiệp” - Ông Bun kể.
Nói là mạnh dạn nhưng thực ra ngày ấy các hộ tiên phong cũng chỉ dám bỏ ra 1.000 - 2.000 m2 đất nương để trồng cà phê, chè, vừa mang tính chất động viên cán bộ tuyên truyền, vừa để thử nghiệm cái mới và không sợ cây công nghiệp làm họ đói.
“Sau 3 năm, thấy chè, cà phê cho thu hoạch, khả năng hơn hẳn cây sắn, cây ngô, thế là tôi lại vận động mọi người nâng diện tích lên. Bây giờ thì hầu hết diện tích ở đây là cà phê và chè rồi. Gần chục năm nay, người bản Noong Lào không còn ai sợ đói, chỉ lo làm giàu nữa thôi”.
Nói về sự đi lên của Noong Lào, ông Lò Văn Pâng, cho biết: Ấy cũng là nhờ có những người mạnh dạn đi đầu như ông Bun nên nhiều hộ khác trong bản mới có cái hay, cái tốt mà học tập. Nhà ông Bun nay thu nhập tới vài trăm triệu đồng/năm, lại có hàng chục con trâu, bò, dê, lợn, con cháu đều ngoan ngoãn, trưởng thành... Chúng tôi tín nhiệm và bầu ông ấy làm Bí thư chi bộ bản Noong Lào hơn chục năm nay rồi đấy”.
Sầm An/ Đại đoàn kết
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn