Những việc đã làm được
Ông Hồ Văn Thiệt, Chi cục trưởng Chi cục PTNT Bến Tre, cho biết: Đến thời điểm này, tỉnh đã phê duyệt quy hoạch đồ án chung cho 77/124 xã, trong đó 25 xã điểm đã hoàn thành 100%; 38/124 khu trung tâm xã có quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết.
Trong quá trình triển khai thực hiện, tỉnh xác định rõ công tác xây dựng cơ sở hạ tầng là khâu đột phá. Theo đó, tỉnh đã tập trung lồng ghép các nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Đồng thời, các địa phương huy động sức dân vừa với khả năng của từng địa phương, đảm bảo hài hòa với các nhiệm vụ khác.
Đến nay, toàn tỉnh Bến Tre đã và đang đầu tư xây dựng, tu bổ, nâng cấp các hạng mục công trình GTNT được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Nhiều gia đình tự nguyện hiến đất, góp công, góp của, cây, dỡ tường rào mở rộng mặt đường theo quy hoạch và đề án được duyệt. Trong năm 2012, toàn tỉnh đã xây dựng mới được 38,724 km đường trục xã và liên xã; 5,639 km đường từ xã đến ấp, liên ấp; 106,893 km đường từ ấp đến xóm, liên xóm; 2,8 km đường trục giao thông, tổng kinh phí đầu tư khoảng 219,565 tỷ đồng.
Đường về xã NTM Châu Bình, huyện Giồng Trôm, Bến Tre
Đối với công tác thủy lợi gắn với Chương trình xây dựng NTM đã đầu tư xây dựng, tu bổ sửa chữa, nâng cấp cống, trạm bơm, nạo vét 399,51 km kênh mương phục vụ tưới tiêu, kinh phí đầu tư 50,165 tỷ đồng. Các công trình công cộng, phục vụ dân sinh đã tập trung đầu tư sửa chữa nâng cấp trên 300 phòng học các cấp, kinh phí 45 tỷ đồng và các công trình về cơ sở vật chất văn hóa nhằm thúc đẩy các hoạt động thể dục thể thao quần chúng.
Nguồn vốn Chương trình MTQG xây dựng NTM và vốn vay của tỉnh phân bổ cho các địa phương để hỗ trợ đầu tư hạ tầng thiết yếu cho các xã điểm với tổng số vốn đầu tư 34,7 tỷ đồng. Trong đó, vốn Chương trình MTQG xây dựng NTM là 14,7 tỷ đồng, vốn vay ưu đãi của tỉnh 20 tỷ.
Công tác phát triển sản xuất, toàn tỉnh có 52 tổ hợp tác được thành lập theo Nghị định 151 tại 36 xã với 20 mô hình để phát triển sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, vốn trực tiếp từ hỗ trợ cho công tác phát triển sản xuất năm 2011 là 287 triệu đồng đầu tư cho 3 xã. Năm 2012 là 1,961 tỷ đồng, năm 2013 hỗ trợ trực tiếp cho 5 xã điểm 820 triệu đồng. Từ nguồn vốn Trung ương đã hỗ trợ trực tiếp cho 18 tổ hợp tác, thực hiện 16 mô hình hình sản xuất. Đối với 34 tổ hợp tác còn lại Ban chỉ đạo đã chỉ đạo cho các địa phương vận động thành lập theo Nghị định 151 theo hình thức người dân tự thực hiện mô hình từ nguồn kinh phí của nhân dân, chưa có hỗ trợ vốn từ ngân sách Chương trình NTM hằng năm, vì một số tổ hợp tác này không nằm trong 25 xã điểm NTM nên chưa hỗ trợ.
Đối với 25 xã điểm, các địa phương đang thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đến năm 2015 đạt tiêu chí thu nhập. Ngoài ra, đã tổ chức tập huấn cho BCĐ các cấp với 3.458 học viên là các cán bộ trực tiếp thực hiện tham dự.
Về giáo dục đã công nhận 126/529 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, THCS cấp độ 1. Xây dựng các trạm y tế của 25 xã điểm đạt chuẩn quốc gia, nhằm nâng cao chất lượng khám, điều trị bệnh ở tuyến cơ sở, đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Công tác bảo vệ môi trường kết quả bước đầu các hộ chăn nuôi quy mô vừa trở lên đều có đầu tư mô hình biogas xử lý chất thải, nhất là các hộ chăn nuôi bò, heo.
Tồn tại cần khắc phục
Ông Hồ Văn Thiệt cho biết, qua 2 năm thực hiện bộ mặt nông thôn Bến Tre ngày càng đổi mới, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn cần tháo gỡ. Đó là, nội dung của chương trình vẫn còn chưa được đề ra rõ ràng, địa phương thực hiện một số chỉ tiêu còn phải sửa đổi, điều chỉnh liên tục, chưa phù hợp. Chương trình xây dựng NTM cần nguồn vốn rất lớn, bình quân 150 - 200 tỷ đồng/xã, trong khi nguồn lực của Nhà nước và các doanh nghiệp, nhân dân có hạn nên tiến độ triển khai các dự án rất chậm. Một số nội dung không có kinh phí riêng như phát triển sản xuất, tỷ trọng vốn do doanh nghiệp hỗ trợ và vốn dân đóng góp cũng rất thấp nên tốc độ triển khai các công trình xây dựng NTM của các xã rất chậm và không đều, chủ yếu chỉ tập trung vào xây dựng mới, ít quan tâm đến tu sửa, nâng cấp.
Đề án xây dựng NTM cấp xã còn nặng về phát triển kết cấu hạ tầng, chưa chú trọng đến phát triển sản xuất tăng thu nhập, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần và bảo vệ môi trường. Chương trình NTM chú trọng nhiều đến xây dựng những công trình cấp xã mà chưa quan tâm thích đáng tới các công trình ở các ấp hoặc ở hộ nông dân.
Về công tác phát triển sản xuất, nhìn chung các địa phương chỉ tập trung cho xây dựng quy hoạch và lập đề án, việc sản xuất vẫn theo kế hoạch hằng năm, chưa có chuyển biến rõ rệt. Trên thực tế, đây là công việc rất khó vì liên quan đến chính sách đất đai, Chương trình xây dựng NTM chưa có chính sách tập trung đất đai, nên chưa thu hút được doanh nghiệp đầu tư tại địa bàn nông thôn, chưa tạo ra các mô hình tổ chức sản xuất mới gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Về công tác đào tạo nghề cho nông dân chưa gắn với các dự án, chương trình và nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp. Trong dạy nghề cho nông dân, các xã NTM chưa tổ chức tốt công tác tư vấn học nghề và tìm việc làm, các Trung tâm dạy nghề chưa xây dựng được bộ giáo trình chuẩn phù hợp với thời gian đào tạo. Nhiều cơ sở dạy nghề phi nông nghiệp để chuyển nghề cho nông dân vẫn trong tình trạng dạy “chay”, thiếu giáo viên có chất lượng, thiếu thiết bị phục vụ thực hành.
Ông Hồ Văn Thiệt kiến nghị: Chính phủ và các Bộ, ngành cần nghiên cứu chính sách về vốn, khoa học công nghệ để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Quan tâm hỗ trợ cho các mô hình phát triển sản xuất nông nghiệp thông qua các chính sách khuyến nông, đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất và khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa qui mô lớn.
Nâng mức hỗ trợ cho các mô hình phát triển sản xuất trong Chương trình xây dựng NTM vì tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách. Bố trí kế hoạch vốn hằng năm sớm để địa phương chủ động xây dựng kế hoạch cho phù hợp.
Có chính sách tín dụng trung và dài hạn phục vụ cho xây dựng NTM, tạo điều kiện thực sự để người nông dân tiếp cận được vốn vay phục vụ cho công tác phát triển sản xuất trong xây dựng NTM.
Các ngân hàng trong quá trình tái cơ cấu nên xem xét ưu tiên nguồn vốn cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Bảo đảm dư nợ cho vay đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn chiếm trên 70% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng cũng nên giảm bớt đầu tư cho các dự án manh mún, cục bộ, đơn ngành; gia tăng vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh doanh có sự cộng tác và điều phối đa ngành trong các hợp tác xã hoặc cụm liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gia tăng. Như thế mới có thể giúp phát triển nông nghiệp toàn diện, giúp nông dân khá giàu, nông thôn thịnh vượng.
Theo nongnghiep.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn