Ảnh minh họa (Ảnh: BT)
Về nội dung quy hoạch, giai đoạn 2016 - 2020, xác định loài cây để trồng 639.000ha rừng gỗ lớn và gỗ nhỏ sinh trưởng nhanh. Trong đó, trồng rừng gỗ lớn 439.000ha, trồng gỗ nhỏ sinh trưởng nhanh 200.000ha. Giai đoạn 2021 - 2030, xác định loài cây để trồng 1.122.000ha rừng gỗ lớn và gỗ nhỏ sinh trưởng nhanh, trong đó, trồng rừng gỗ lớn 912.000ha, trồng rừng gỗ nhỏ sinh trưởng nhanh 210.000ha.
Cụ thể, giai đoạn từ nay đến năm 2030, định hướng loài cây trồng rừng ở 8 vùng sinh thái lâm nghiệp trên phạm vi cả nước gồm 43 loài. Trong đó, cây trồng lấy gỗ 24 loài; cây lâm sản ngoài gỗ và các mục đích khác 19 loài. Bên cạnh đó, quy hoạch diện tích trồng rừng tập trung giai đoạn 2016-2020 với 439.000ha, bình quân 87.800ha/năm; giai đoạn 2026-2030, trồng rừng tập trung 571.000ha. Quy hoạch chuyển hóa rừng trồng sản xuất kinh doanh gỗ nhỏ hiện có sang kinh doanh rừng gỗ lớn, trong giai đoạn 2016-2020 là 200.000ha, bình quân 40.000ha/năm.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, các giải pháp xác định cần rà soát quy hoạch lại hệ thống rừng giống, vườn giống, bổ sung thêm 30 nguồn giống tại 8 vùng sinh thái lâm nghiệp với tổng diện tích 2.320ha cho 23 loài. Đồng thời, đánh giá, lựa chọn, lập danh mục cơ cấu loài và giống cây trồng lâm nghiệp có năng suất cao, phù hợp với từng điều kiện lập địa, đáp ứng được yêu cầu của thị trường để đưa vào trồng rừng.
Bên cạnh đó, xây dựng và ban hành hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng thâm canh cung cấp nguyên liệu gỗ lớn; xây dựng, hướng dẫn kỹ thuật chuyển hóa rừng trồng cây mọc nhanh cung cấp nguyên liệu gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn. Về chế biến và thị trường, cơ cấu lại sản phẩm gỗ có lợi thế và mang lại giá trị cao; từng bước giảm dần xuất khẩu dăm, mảnh, đến năm 2020 còn khoảng 3 triệu tấn và giảm dần đến năm 2030. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa người trồng rừng với doanh nghiệp chế biến gỗ; tăng cường quảng bá sản phẩm gỗ nội địa, đồng thời xây dựng và phát triển các kênh phân phối đồ gỗ trên thị trường nội địa./.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn