Đồng thời Quốc hội cũng thảo luận, đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn, tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2016-2020.
Trong quá trình thảo luận, thành viên Chính phủ sẽ phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Điều hành phiên họp Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho biết, trong buổi sáng đã có 26 đại biểu phát biểu, Bộ trưởng Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể đã phát biểu giải trình. Chiều nay có 12 đại biểu đăng ký tham luận, Quốc hội sẽ mời một số Bộ trưởng, trưởng ngành giải trình thêm về tài chính, ngân sách nhà nước và đầu tư công trung hạn.Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Long An). |
Đại biểu Ngô Thị Kim Yến (Đà Nẵng). |
Đại biểu Nguyễn Minh Sơn (Tiền Giang). |
Nhất trí với 5 kiến nghị của Chính phủ về ngân sách nhà nước năm 2019. Về ngân sách nhà nước thời gian tới, đại biểu Nguyễn Minh Sơn (Tiền Giang) đề xuất 3 giải pháp.
Trước hết, cần kiên quyết thu hồi khoản kinh phí sai mục đích, sai đối tượng, không giải ngân được những khoản chị bị thanh tra kiểm toán nhà nước yêu cầu thu hồi hoặc xử lý giảm chi.
Có biện pháp, phương thức kiểm kê phân loại, quản lý tập trung, khai thác đưa vào sử dụng các tài sản công, các công trình đầu tư từ vốn nhà nước, trước hết là hạ tầng cơ sở, các công trình công cộng, phúc lợi, văn hóa, thể thao tạo nguồn thu cho nhà nước, hoặc ít ra cũng có nguồn thu để bảo trì, duy tu, nâng cấp công trình khỏi tốn kém, lãng phí ngân sách nhà nước.
Tăng cường kỷ luật ngân sách, quyết định dự toán ngân sách nhà nước và quyết định phân bổ ngân sách trung ương thì nghị quyết của Quốc hội phải là luật pháp.
“Mọi điều chỉnh dù nhỏ cũng phải trình Quốc hội, mọi vi phạm dù nhỏ, không có giải trình thỏa đáng đều không được Quốc hội phê chuẩn. Xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật thu chi, rõ sai phạm trong thực hiện và quản lý ngân sách”, đại biểu Nguyễn Minh Sơn nói.
Cơ cấu lại nền tài chính quốc gia
Về thực hiện kế hoạch tài chính 5 năm 2016 - 2020 và kế hoạch tài chính 3 năm 2019 – 2021, ngoài các giải pháp Chính phủ nêu trong báo cáo, đại biểu Nguyễn Minh Sơn đề nghị cần nghiên cứu bổ sung 5 giải pháp.
Một là, cần nghiên cứu, sớm ban hành Luật Tài chính Nhà nước, Luật Tài chính công, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động tài chính nhà nước, trong đó có ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và toàn bộ hoạt động tín dụng nhà nước. Ban hành các chính sách tài chính quốc gia, trong đó tập trung chính sách tài chính dân cư, chính sách tài chính cho khu vực kinh tế tư nhân.
Hai là, cơ cấu lại nền tài chính quốc gia theo hướng tăng quy mô và tỷ trọng tài chính doanh nghiệp, tài chính dân cư.
Ba là, hoàn thiện chính sách, cơ cấu cơ chế thu, mở rộng và bao quát các nguồn thu, đánh giá lại các chính sách ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, cơ cấu lại các khoản chi, tăng cường quản lý chi.
Bốn là, đánh giá và đổi mới phân cấp ngân sách nhà nước, phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước, quan tâm phát triển và sử dụng có hiệu quả thị trường tài chính, tăng nguồn vốn từ thị trường tài chính cho sản xuất kinh doanh.
Năm là, cần sớm nghiên cứu, xây dựng, triển khai thí điểm phát triển các công cụ tài chính, ứng phó, khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra nhằm chia sẻ rủi ro, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước như bảo hiểm rủi ro thiên tai, trái phiếu rủi ro thiên tai.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể phát biểu giải trình trước Quốc hội. Ảnh VGP/Nhật Bắc |
Đối với dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông và Cảng hàng không quốc tế Long Thành Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể khẳng định đây là hai dự án trọng điểm, được thực hiện đúng trình tự, thủ tục, "không được phép sai sót khâu nào để vừa bảo đảm thời gian, chất lượng, vừa đúng trình tự, thủ tục".
Cụ thể, sau khi Nghị quyết 52 của Quốc hội được ban hành, Chính phủ đã giao trách nhiệm cho các bộ ngành, trong đó có Bộ Giao thông vận tải. Sau khi có ý kiến của Chính phủ, Bộ triển khai đấu thầu tư vấn lập dự án. Sau đó mất 2 tháng lựa chọn nhà tư vấn phù hợp.
Tiếp đó, Bộ tiến hành đánh giá tác động môi trường, xây dựng khung giá bồi thường, đền bù giải phóng mặt bằng với các dự án cụ thể; thống nhất với các địa phương về quy mô, các tuyến đi qua. “Công tác này mất nhiều thời gian vì phải thống nhất các đường chung, cầu các tuyến, đường tránh…”, Bộ trưởng cho biết.
Hiện Bộ đã phê duyệt 5 dự án, còn 5 dự án nữa đang trình Chính phủ cho ý kiến, dự kiến đầu tháng 11 sẽ phê duyệt 10 dự án. “Dự án cầu Mỹ Thuận chậm do là dự án lớn nên phải thuê tư vấn thực hiện lập thiết kế kỹ thuật lâu, phấn đấu trong năm 2018 sẽ phê duyệt toàn bộ 11 dự án”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nói.
Như vậy, “việc thực hiện dự án đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục; đến thời điểm này cơ bản hoàn thành thiết kế dự án; dự kiến đến năm 2019 hoàn thành bản vẽ thi công dự án, để hai năm 2020 và 2021 tập trung hoàn thành dự án”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nói.
Đối với dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Bộ trưởng nêu rõ, sau khi Quốc hội thống nhất tách dự án giải phóng mặt bằng thành dự án tiến hành riêng, thì Quốc hội đã có Nghị quyết số 54/2017 giao UBND tỉnh Đồng Nai và Bộ Giao thông vận tải thực hiện.
Trong thời gian qua, hai nhiệm vụ được tiến hành song song. Trong đó, UBND tỉnh Đồng Nai khẩn trương hoàn thành Đề án giải phóng mặt bằng trình Chính phủ phê duyệt, sau khi phê duyệt mới bắt đầu kiểm đếm, chi trả. Bộ Giao thông vận tải thực hiện đấu thầu quốc tế xây dựng phương án thiết kế khả thi cho sân bay.
Về tiến độ thực hiện, với công tác giải phóng mặt bằng, tháng 3/2018, UBND tỉnh Đồng Nai đã trình Chính phủ, sau đó Chính phủ tổ chức thẩm định và góp ý. Tháng 7/2018, UBND tỉnh Đồng Nai trình lần thứ hai. Hiện nay, Hồ sơ đang trình Chính phủ, dự kiến đầu tháng 11 Chính phủ sẽ phê duyệt dự án. Trên cơ sở phê duyệt này, UBND tỉnh Đồng Nai sẽ căn cứ vào đó kiểm đếm, thực hiện chi trả giải phóng mặt bằng.
Đối với phần nhiệm vụ của Bộ Giao thông vận tải, hiện đã tiến hành đấu thầu quốc tế lập dự án giai đoạn 1 cho Cảng hàng không quốc tế Long Thành từ tháng 1-6/2018. Đến tháng 6/2018 mới chính thức lập dự án, do liên doanh 5 nhà thầu thực hiện khẩn trương (trong đó có 3 nhà thầu Nhật Bản, 2 nhà thầu trong nước). Dự kiến, đến tháng 7/2019 sẽ hoàn thành công tác này, còn tháng 3/2019 sẽ hoàn thành báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án này và tháng 10 sẽ báo cáo với Quốc hội.
Như vậy, với hai dự án này, đến nay đều đang tập trung thực hiện khâu khảo sát, thiết kế, lập dự án. Do vậy, kinh phí được phân bổ nhưng chưa sử dụng được. Trong tháng 11 tới, nếu Chính phủ phê duyệt dự án giải phóng mặt bằng Cảng hàng không quốc tế Long Thành, sẽ sử dụng khoản 23 nghìn tỷ đồng bố trí cho công tác này. UBND tỉnh Đồng Nai sẽ bắt đầu thực hiện công việc của mình.
Đối với kinh phí 55 nghìn tỷ đồng bố trí cho dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông, tháng 1/2019, sau khi bàn giao mặt bằng cho các địa phương, mỗi địa phương sẽ khẩn trương chọn từng đoạn đơn giản nhất để phê duyệt và thực hiện trước, sử dụng 14 nghìn tỷ đồng đã bố trí. Riêng với trên 27 nghìn tỷ động đầu tư vào 651 km đường cao tốc này, đến tháng 9/2019, sau khi hoàn thành đấu thầu quốc tế, thì mới triển khai giải ngân nguồn vốn được giao. Như vậy, Bộ Giao thông vận tải đã nghiêm túc chấp hành quy trình, thủ tục phân bổ vốn đầu tư công, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể khẳng định.
Về triển khai các dự án giao thông liên kết vùng, Bộ trưởng cho biết, Bộ GTVT cũng đang triển khai lập đề án kết nối cảng Lạch Huyện, Cái Mép - Thị Vải để hình thành các tuyến đường kết nối nhằm phát huy hiệu quả các cảng này trong phát triển kinh tế xã hội vùng. Đối với sân bay Long Thành cũng sẽ lập quy hoạch để xây dựng các tuyến đường kết nối tổng thể, tránh tình trạng như sân bay Tân Sơn Nhất...
Đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ
Trước đó, chiều 22/10, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo về tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2018, dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương năm 2019; sơ kết 3 năm thực hiện kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia 2016 - 2020; phân bổ nguồn kinh phí còn lại và chi thường xuyên chưa sử dụng hết năm 2017.
Tiếp đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2018, dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương năm 2019; sơ kết 3 năm thực hiện kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia 2016-2020; phân bổ nguồn kinh phí còn lại và chi thường xuyên chưa sử dụng hết năm 2017.
Ủy ban Tài chính-Ngân sách đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và sự cố gắng của cộng đồng doanh nghiệp, sự phối hợp với trách nhiệm cao của các cơ quan trong hệ thống chính trị trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ và dự báo sẽ hoàn thành các nhiệm vụ thu-chi NSNN với kết quả cao nhất so với một số năm gần đây theo Nghị quyết của Quốc hội đề ra.
Tổng thu NSNN ước vượt 3%
Về tình hình thu NSNN, theo báo cáo của Chính phủ, tổng thu NSNN cả năm ước vượt 3% (39,2 nghìn tỷ đồng) so với dự toán, song theo Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính-Ngân sách, dù kết quả thu NSNN ước vượt dự toán, nhưng chưa đạt được một số mục tiêu trong Nghị quyết của Quốc hội như: Tỉ lệ huy động từ thuế, phí đạt 20,7% GDP, thấp hơn mục tiêu 21% GDP đề ra; nợ đọng thuế còn lớn và có xu hướng tăng so với năm 2017.
Về chi NSNN, Báo cáo của Chính phủ cho thấy, ước thực hiện chi cả năm tăng 2,6% (39,2 nghìn tỷ đồng) so với dự toán. Trong đó, chi đầu tư phát triển tăng 4,7% (18,66 nghìn tỷ đồng) so với dự toán; chi thường xuyên tăng 1,3% (12,25 nghìn tỷ đồng) so với dự toán. Tỉ trọng chi đầu tư phát triển/tổng chi NSNN ước đạt 26,78% tổng chi NSNN, cao hơn số thực hiện năm 2017 là 25%, tỉ trọng chi thường xuyên (đã bao gồm cả chi cải cách tiền lương, tinh giản biên chế) ước đạt 63,29% tổng chi NSNN, thấp hơn số ước thực hiện năm 2017 (64,68%).
Ủy ban Tài chính-Ngân sách cho rằng, về cơ bản, Chính phủ đã điều hành bám sát dự toán, quản lý ngân sách theo hướng ngày càng đề cao kỷ cương, kỷ luật tài chính, chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường hậu kiểm trong việc giao nhiệm vụ chi, kiểm soát chi tập trung một đầu mối, sắp xếp lại tổ chức bộ máy đi đôi với tinh giản biên chế, đẩy mạnh giao quyền tự chủ trong các lĩnh vực sự nghiệp công lập, thực hiện nâng lương cơ sở theo Nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, qua giám sát cho thấy, còn một số vấn đề tồn tại.
Cụ thể, việc cơ cấu lại chi NSNN chưa có nhiều chuyển biến rõ rệt, tỉ trọng chi thường xuyên trong tổng chi NSNN còn cao. Việc thực hiện một số chính sách an sinh xã hội thiếu đồng bộ, chưa đạt hiệu quả so với mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Bên cạnh đó, việc hướng dẫn về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập chưa đồng bộ, kịp thời, chưa cụ thể nên về cơ bản, việc thực hiện còn chậm. Điều này dẫn đến NSNN vẫn còn phải bao cấp hầu hết chi đầu tư và nhiều khoản chi thường xuyên cho nhiều đơn vị sự nghiệp công lập ở cả Trung ương và địa phương. Việc quản lý nguồn thu từ khai thác tài sản công còn lỏng lẻo, hiệu quả thấp, thất thoát nguồn lực còn lớn.
Cũng theo đánh giá của Ủy ban Tài chính-Ngân sách, việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở một số địa phương còn nặng về hình thức, chưa có chuyển biến thực sự, có nơi còn chưa đúng pháp luật.
Không ban hành chính sách làm tăng chi NSNN
Về cân đối ngân sách, theo báo cáo của Chính phủ, bội chi NSNN ước bằng dự toán là 204 nghìn tỷ đồng. Ước dư nợ công năm 2018 là 61,4% GDP, nợ nước ngoài là 49,7% GDP, trong phạm vi cho phép.
Nếu so với kết quả của các năm trước (2016 là 63,7% GDP, năm 2017 là 61,4%), tỉ trọng nợ công/GDP có xu hướng giảm, kỳ hạn vay dài hơn, lãi suất thấp hơn, tỉ trọng vay trong nước cao hơn là một kết quả tích cực, có thể bảo đảm thực hiện mục tiêu của Quốc hội về chỉ tiêu nợ công của giai đoạn 2016-2020.
Tuy nhiên, số tuyệt đối về nợ công tiếp tục đà tăng và vay để trả nợ gốc hằng năm có xu hướng tăng. Ủy ban Tài chính - Ngân sách đề nghị Chính phủ tính toán kỹ lộ trình vay, trả nợ và đặc biệt lưu ý đến những chương trình, dự án mới đã ký kết và đang đàm phán nhưng chưa giải ngân nên chưa tính vào nợ công sẽ là yếu tố tăng nợ công trong thời gian tới.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chống thất thu NSNN
Về các giải pháp để thực hiện dự toán NSNN năm 2019, Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng cần tập trung chỉ đạo quyết liệt trong công tác thu NSNN, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chống thất thu, trốn thuế, chống nợ đọng tiền thuế để tăng thu NSNN.
Đồng thời, quán triệt nguyên tắc không ban hành chính sách làm giảm thu NSNN để bảo đảm tính ổn định của chính sách thu và tỉ lệ huy động vào NSNN.
Bên cạnh đó, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư cho các dự án, công trình, quản lý chặt chẽ vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Chậm nhất đến 30/9 hằng năm phải rà soát các nhiệm vụ chi đầu tư chậm triển khai, chậm giải ngân, nhất là vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA để cắt giảm dự toán, điều chuyển cho các dự án có khả năng giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Chính phủ cũng cần tăng cường công tác quản lý chi NSNN, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; quản lý chặt chẽ việc mua sắm tài sản công. Không ban hành chính sách làm tăng chi NSNN khi không cân đối được nguồn để thực hiện. Không nợ chi thực hiện chính sách đã ban hành. Tăng cường kỷ luật ngân sách, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu.
Hiệu quả đầu tư toàn nền kinh tế bước đầu tăng lên
Cũng trong phiên làm việc chiều 22/10, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.
Tiếp đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra.
Báo cáo của Chính phủ nêu rõ, thời gian qua, tỉ trọng đầu tư công trên GDP dịch chuyển tích cực, phù hợp với các mục tiêu về cơ cấu lại đầu tư công đã đề ra, tính đến năm 2017, tỉ trọng vốn đầu tư của Nhà nước giảm xuống còn 34,8% so với tổng đầu tư toàn xã hội, tương đương 11,6% GDP.
Cơ cấu vốn đầu tư công dịch chuyển theo hướng phù hợp hơn với các định hướng đầu tư trong giai đoạn 2016-2020, trong đó, cơ cấu đầu tư các ngành giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản và các lĩnh vực hạ tầng đã được quan tâm hơn, chiếm tỉ trọng ngày càng cao.
Hiệu quả đầu tư toàn nền kinh tế bước đầu tăng lên, việc sử dụng vốn đầu tư xã hội nói chung và vốn đầu tư công nói riêng được cải thiện. Hệ số ICOR giảm từ 6,36 của giai đoạn 2011-2014 xuống còn 6,11 trong giai đoạn 2015-2017, tỉ lệ các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng tăng.
Giải ngân vốn đầu tư công đã từng bước được cải thiện nhờ những nỗ lực tháo gỡ khó khăn của Chính phủ, tốc độ giải ngân vốn đầu tư công có sự cải thiện rõ rệt qua các tháng, quý.
Khắc phục nhiều bất cập
Tình trạng quyết định chủ trương và quyết định đầu tư tùy tiện, không căn cứ khả năng cân đối vốn cũng đã được khắc phục. Tổng số dự án của Kế hoạch đầu tư công trung hạn là 9.620 dự án (không bao gồm các dự án thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia), chỉ bằng khoảng 50% so với giai đoạn trước về số dự án.
Trong đó, số dự án hoàn thành trong giai đoạn đạt 65,4%; số dự án chuyển tiếp sang giai đoạn sau khoảng 4,3%; số vốn bố trí bình quân cho một dự án đạt khoảng 35,5 tỷ đồng/1 dự án, tăng 35,8% so với giai đoạn trước.
Thông tin theo dõi, giám sát các dự án đầu tư công từng bước được hệ thống hóa và số hóa, thông qua việc đưa vào vận hành hệ thống quản lý đầu tư công, một số thông tin được công khai hóa, góp phần tăng cường vai trò giám sát của xã hội đối với đầu tư công.
Tình trạng kế hoạch đầu tư công bị cắt khúc cũng đã được khắc phục thông qua việc đổi mới công tác lập, phê duyệt, giao kế hoạch đầu tư công, chuyển từ lập kế hoạch hằng năm sang kết hợp giữa kế hoạch trung hạn và hằng năm.
Khả năng cân đối ngân sách bố trí vốn hằng năm gặp nhiều nhiều khó khăn
Bên cạnh những kết quả nổi bật nêu trên, Báo cáo của Chính phủ cũng thẳng thắn nhìn nhận một số tồn tại, hạn chế.
Khả năng cân đối ngân sách Nhà nước để bố trí vốn thực hiện hằng năm còn gặp nhiều khó khăn, tỉ trọng chi đầu tư còn thấp (khoảng 25%), số vốn cân đối cho các chương trình mục tiêu chỉ đạt khoảng 53% nhu cầu.
Việc hoàn thiện thủ tục và lựa chọn dự án phù hợp để đưa vào kế hoạch đầu tư trung hạn còn nhiều bất cập, nguyên nhân là do lần đầu tiên thực hiện các quy định của Luật Đầu tư công, các bộ, ngành, địa phương lúng túng trong triển khai thủ tục và chưa có giải pháp cụ thể để lựa chọn các dự án tối ưu.
Việc phân bổ vốn chi tiết cho từng dự án còn nhiều hạn chế, do nguồn vốn cân đối hạn hẹp, chưa đáp ứng nhu cầu, một số bộ, ngành, địa phương sau khi thanh toán nợ đọng, hoàn ứng và bố trí vốn cho các dự án chuyển tiếp, gần như không còn đủ vốn để bố trí vốn cho các dự án khởi công mới. Bên cạnh đó, một số bộ, ngành, địa phương vẫn còn tư duy phân bổ dàn trải, phân tán, dự kiến quá nhiều dự án đưa vào danh mục.
Chưa giải quyết được tình trạng mất cân đối giữa khả năng đáp ứng nguồn vốn và nhu cầu về vốn đầu tư nguồn ngân sách Trung ương, nhiều dự án cấp bách, trọng điểm, dự án ODA, dự án đến hạn phải trả cho các nhà đầu tư của các bộ, ngành, địa phương chưa được đưa vào kế hoạch đầu tư trung hạn do không có nguồn bố trí. Tình trạng mất cân đối giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương ngày càng tăng, không bảo đảm mục tiêu ngân sách Trung ương đóng vai trò chủ đạo theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.
Việc giao chi tiết kế hoạch đầu tư công cho các bộ, ngành và địa phương đôi khi còn bị chậm và thực hiện nhiều lần trong năm 2015, 2016, tuy nhiên đã có cải thiện đáng kể từ kế hoạch năm 2017. Việc điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm còn vướng nhiều thủ tục hành chính, chưa chủ động, kịp thời.
Sức ép lớn đối với công tác cân đối và phân bổ vốn hằng năm
Trong 2 năm còn lại của Kế hoạch đầu tư công trung hạn 2015-2020, do tốc độ tăng năm sau so với năm trước thấp, nên đã dẫn tới hạn mức vốn phải thực hiện còn lại trong 2 năm 2019, 2020 của Kế hoạch đầu tư trung hạn còn lại khá nhiều, tạo sức ép lớn đối với công tác cân đối và phân bổ vốn trong kế hoạch hằng năm.
Để thực hiện nhiệm vụ đã đề ra tại Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc hội trong 2 năm còn lại, bình quân mỗi năm cần phải được bố trí ngân sách Trung ương khoảng 237 nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên, đầu tư là một quá trình liên tục, sẽ có một bộ phận hạn mức vốn thuộc kế hoạch đầu tư trung hạn sẽ được chuyển sang giai đoạn 2021-2025 để tiếp tục bố trí kế hoạch hằng năm và thực hiện. Đây là một thực tiễn khách quan, khi các dự án được khởi công vào giai đoạn cuối của chu kỳ trung hạn nhưng có thời gian thực hiện từ 5-8 năm, phù hợp với số liệu đánh giá là có khoảng 412 dự án của Kế hoạch đầu tư công trung hạn sẽ chuyển tiếp thực hiện và hoàn thành trong giai đoạn 2021-2025./.
theo chinhphu.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn