Thế nhưng, chính trong thời gian này Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu đã trở thành cường quốc XK nông sản như: lúa gạo, chè, cà phê, cao su, hồ tiêu..., đồng thời cũng bùng nổ dữ dội những tác động làm biến động chất lượng đất đai. Đó là nạn phá rừng trầm trọng thành vấn đề có tính chất “Quốc nạn” gây nên tình trạng xói mòn, lở đất, lũ ống, lũ quét ngày càng trầm trọng;Việc độc canh 3 - 4 vụ lúa/năm trên cùng một vùng đất trở thành phổ biến;
Nông dân ít quan tâm đến sử dụng các loại phân hữu cơ mà lệ thuộc hoàn toàn vào phân hóa học, thuốc BVTV... gây ô nhiễm môi trường, thoái hóa đất;BĐKH, trái đất nóng lên trở thành vấn đề toàn cầu gây lên các trạng thái khí hậu cực đoan như bão lũ, lở đất, nước biển dâng gây ngập mặn mất đất canh tác... mà Việt Nam là một trong 8 quốc gia bị tác động nặng nề nhất.
Những vấn nạn trên tác động thế nào đến chất lượng đất trồng? Liệu bản đồ đất đai xây dựng cách đây hàng chục năm có còn giá trị sử dụng như một loại cẩm nang cho nông dân nữa không?
Ngày 10/2/2014, Báo Nông nghiệp Việt Nam có đăng bài viết rất hay của TS Nguyễn Đăng Nghĩa nói về kết quả khảo sát hàm lượng lưu huỳnh (S) trong đất Tây Nguyên khiến chúng ta phải giật mình khi mà cả một vùng đất đỏ bazan màu mỡ từ chỗ thiếu hụt nguyên tố S nay đã trở thành một vùng đất chua (pH thấp 4,3 - 4,5) với hàm lượng S tầng mặt quá cao (86 ppm) đã cho thấy nguy cơ ngộ độc lưu huỳnh trên đất trồng cà phê.
Vùng đất nhiễm mặn Kim Sơn (Ninh Bình) nhờ sử dụng phân bón Văn Điển trên giống lúa TL6 từ mất mùa đã đạt 8 - 9 tấn/ha
Để giải thích tình trạng trên TS Nguyễn Đăng Nghĩa cho rằng nguyên nhân là do nông dân thích sử dụng loại phân có hàm lượng lưu huỳnh cao NPK 16-16-8-13S theo thói quen đã có từ thời trước giải phóng và lâu ngày S tích tụ lại. Chúng tôi xin được bổ sung thêm rằng, hàng năm nước ta NK hàng vạn tấn đạm sulphat amôn (NH4)2SO4 với hàm lượng 24%S để SX phân NPK (do đạm ure kết hợp lân supe bị chảy nước vón cục) công các DN phân bón trong nước SX và sử dụng khoảng trên 1 triệu tấn phân supe đơn với hàm lượng 12%S. Hai loại phân có hàm lượng S cao trộn với nhau sẽ tạo ra những sản phẩm NPK chứa S cực cao. Mấy chục năm qua nông dân đã dùng các loại phân này chăm bón, nếu không biết thay đổi hoặc do thị trường không có chủng loại khác để thay thế thì đây chính là nguyên nhân gây lên tình trạng đất bị hóa chua (pH thấp) và tích tụ S gây ngộ độc đất.
Câu hỏi đặt ra giành cho ngành Nông nghiệp là ở Việt Nam có bao nghiêu vùng đất đã bị biến đổi có tính “quay ngoắt” như vậy? Làm thể nào để hạn chế, chấm dứt tình trạng này?.
Ở Nhật Bản, từ những năm 1960 người ta đã có những nghiên cứu nghiêm túc về tác động của phân hóa học tới việc cải tạo đất, từ đó đề ra các biện pháp định hướng cho nông dân sử dụng những sản phẩm phân hóa học có lợi cho việc cải tạo đất để SX ra các nông sản sạch, có chất lượng cao.
Dưới đây là tư liệu về xu hướng sử dụng phân lân tại Nhật Bản từ năm 1961-1971 do Liên hiệp các xí nghiệp SX phân bón Nhật Bản, Shinkyobashi Kyobashi, 3-6 Chucku Tokio, Japan công bố.
Đơn vị : 1.000 tấn
Năm | 1961 | 1963 | 1965 | 1967 | 1969 | 1971 |
- Supe phosphat và các loại khác | 712 | 518 | 386 | 299 | 186 | 135 |
- Phân lân nung chảy | 239 | 216 | 263 | 414 | 449 | 487 |
Ở Việt Nam, những nghiên cứu của các nhà khoa học nông nghiệp và khảo nghiệm thực tế của công ty CP Phân lân Văn Điển cũng cho thấy kết quả tương tự Nhật Bản. Cố GS.TS Võ Minh Kha cùng cộng sự qua nhiều năm nghiên cứu, khảo nghiệm đã nhiều lần khẳng định trong các công trình nghiên cứu của ông: Phân Lân Văn điển là loại phân tốt nhất cho đồng ruộng Việt Nam, đăc biệt là ruộng chua, phèn..., khi phối hợp với N, K trở thành loại Phân đa yếu tố NPK cung cấp cân đối 16 yếu tố dinh dưỡng bổ sung cho đất.
Ở vùng chè Thái Nguyên, canh tác theo truyền thống năng suất rất thấp, do sử dụng nhiều năm cùng một loại phân bón có tính chua làm cho đất quá chua và nghèo kiệt. Tại Nông trường chè Sông Cầu, ông Nguyễn Văn Bốn - PGĐ Nông trường chia sẻ với chúng tôi rằng, đất ở Thái Nguyên chua quá, độ pH 2,8 - 3,1 nên cây chè chùn lại không phát triển. Khi đưa phân bón Văn Điển vào các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lương, Phú Bình năng suất tăng gấp 2-3 lần, bà con nông dân hồ hởi đón nhận. Tại vùng chè Phú Thọ, 2 Cty Chè liên doanh là Phú Bền và Phú Đa sử dụng phân chuyên dùng Văn Điển năng suất chè tăng gấp 3 lần canh tác theo truyền thống và họ gắn bó với Văn Điển gần 10 năm nay.
Tại vùng đất ven biển Kim Sơn (Ninh Bình) có khoảng 10.000ha đồng ruộng bị xâm nhập mặn, trồng lúa thu hoạch rất thất thường, nhiều vụ mất trắng, hoặc cho năng suất rất thấp. Năm 2011, Trung tâm Chuyển giao Công nghệ và Khuyến nông (VAAS) đưa phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển làm mô hình với giống lúa TL6 trên vùng đất này, nông dân đã có thu hoạch với năng suất từ 8 - 9 tấn/ha. Còn ở huyện Nga Sơn (Thanh Hóa) là nơi có diện tích chua, mặn trồng cói cho năng suất rất thấp, khi sử dụng phân chuyên dùng Văn Điển năng suất và chất lượng cói tăng lên mạnh, độ dài của cói trên 1,8m tăng lên >50%, sợi cói đanh, dai.
Riêng Tây nguyên, phân bón Văn điển đã được khẳng định là không thể thiếu đối với các vườn cà phê, hồ tiêu, cao su... Với miền Tây Nam Bộ, suốt từ Long An đến huyện Hòn Đất, Kiên Giang, lân Văn Điển được coi như là giải pháp trị chua phèn và cung cấp đầy đủ, đồng thời, cân đối dinh dưỡng đa, trung, vi lượng cho đồng ruộng để có năng suất cao.
Hiện nay sản phẩm Văn Điển tiêu thụ khoảng 30% tại Bắc Bộ, 35-40% ở Tây Nguyên, trên 30% ở Nam Bộ và giành 5 - 10% XK nhưng vẫn thiếu chưa đáp ứng được nhu cầu. Công ty đang gấp rút xây dựng thêm một nhà máy nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nông dân và phục vụ XK. Phân lân FMP Văn Điển chứa 15 - 19% P2O5, 28 - 30% CaO, 24 - 32% SiO2, 15 -18% MgO và đầy đủ các chất trung vi lượng như Zn, Cu, B, Mo. Mn, Fe, Co...với tính kiềm pH = 8 - 8,5, phải chăng đó là giải pháp cho việc cải tạo đất khỏi nhiễm chua phèn, ngập mặn, cân bằng lại dinh dưỡng, giảm các yếu tố thừa như S gây ngộ độc cho cây, bổ sung những mất mát Ca, Mg và các chất vi lượng do quá trình xói mòn...chống lại những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ở Việt Nam?
+ Thực tiễn đặt ra với Bộ NN-PTNT và các cơ quan chức năng, nên chăng cần cho khởi động lại các đề tài nghiên cứu đất phân cho từng loại đất, từng loại cây trồng trên các vùng chuyên canh, các cánh đồng mẫu lớn, ứng dụng các công nghệ chẩn đoán nhanh dinh dưỡng đất như công nghệ phân tích NPK tự động Oftifert…. + Trong quá khứ, chúng ta đã có nhiều thành tựu trong lĩnh vực này thể hiện qua các công trình: Chuyển đổi danh pháp các loại đất chính Việt Nam (theo Chú dẫn bản đồ đất tỷ lệ 1/1.000.000) theo FAO-UNESCO và Soil Taxonomy (Phân loại đất) của các tác giả Đỗ Đình Thuận, Hồ Quang Đức (1989); Xác định tên một số loại đất Việt Nam theo FAO-UNESCO và Soil Taxonomy (Seghal, Tôn Thất Chiểu và CTV (1989); Chú giải bản đồ và Bản đồ đất ĐBSCL (Tôn Thất Chiểu, Nguyễn Công Pho, Nguyễn Văn Nhân và những người khác (1991)… |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn