23:37 EST Thứ ba, 19/11/2024
CHỦ ĐỀ HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HCM CỦA VP ĐIỂU PHỐI NTM HÀ TĨNH "GƯƠNG MẪU, CHỦ ĐỘNG, TÂM HUYẾT, KHOA HỌC, HIỆU QUẢ"

Menu Hệ thống

Tư vấn chính sách
Văn bản Pháp luật
Văn bản Pháp luật
Điều hành tác nghiệp Hà Tĩnh
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Cổng Thông tin Điện tử Hà Tĩnh
Công báo Hà Tĩnh
Báo Nông nghiệp Việt nam
Khuyến nônng Việt Nam
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tĩnh

TRANG CHỦ » Tin Tức » Nhiều người quan tâm


Đối tác chiến lược ngành in bạt quảng cáo

in bạt hiflex - in decal pp - in decal ngoài trời - in băng rôn

Vài nét về văn hóa nông thôn hiện nay

Chủ nhật - 17/03/2013 09:47
Nhu cầu văn hóa là một vấn đề quan trọng trong đời sống tinh thần của con người nói chung, của người nông dân nói riêng. Sự hiểu biết về nhu cầu văn hóa của người nông dân là hết sức khác nhau, phụ thuộc vào vị trí, điều kiện xã hội, giới tính. nghề nghiệp, tuổi tác, thậm chí cả sở thích của từng cá thể. Quan điểm chung của người nông dân về nhu cầu văn hóa là: coi mọi nhu cầu của con người trong xã hội, kể cả nhu cầu kinh tế đều thuộc phạm trù nhu cầu văn hóa và việc thỏa mãn những nhu cầu xã hội cũng chính là thỏa mãn nhu cầu văn hóa.
 

Trong hệ thống nhu cầu ấy, không thể đáp ứng như nhau toàn bộ những nhu cầu của con người bởi có nhu cầu hợp lý và nhu cầu bất hợp lý; có nhu cầu nổi trội, cấp thiết và có những nhu cầu chưa thực sự cần thiết đối với người nông dân trong bối cảnh hiện nay hoặc tương lai. Vì thế, việc tìm hiểu kỹ, phân loại và định hướng nhu cầu văn hóa của người nông dân là vấn đề hết sức cần thiết. Không đề ra được một hệ thống tiêu chí phân loại nhu cầu của cộng đồng, gia đình, người dân, cá nhân ở nông thôn… thì rất dễ sa vào việc đáp ứng tràn lan mọi nhu cầu khi nó xuất hiện và không đạt được hiệu quả cao về văn hóa xã hội cũng như phát triển kinh tế. Đặc biệt, nhu cầu cao về một đời sống văn hóa lành mạnh, an toàn về đầu tư phát triển kinh tế hộ, về cập nhật thông tin, công nghệ, KHKT nhằm áp dụng vào sản xuất và sinh hoạt văn hóa… là vấn đề hết sức quan trọng. Nó đặt ra cho các nhà lãnh đạo,  quản lý văn hóa xã hội ở nông thôn hàng loạt vấn đề cần giải quyết để đáp ứng nhu cầu ấy. Chẳng hạn; quy hoạch thiết chế văn hóa ra sao, quản lý hoạt động văn hóa thế nào, môi trường, môi sinh văn hóa làm sao… để đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu này. Đó là những điều phải suy nghĩ, tìm tòi, hoạch định từ trước nếu muốn có một tương lai tốt đẹp của đời sống văn hóa lành mạnh ở nông thôn.
Để đáp ứng được nhu cầu văn hóa, cần có hoạt động văn hóa phong phú, phát triển. Hoạt động văn hóa ở nông thôn có một số điều đáng chú ý.
Người dân nông thôn đánh giá rất cao hoạt động của truyền hình (và một phần phát thanh) cho rằng đây là hoạt động nổi trội, cập nhật, bổ ích. Kế đó là hoạt động thông tin báo chí. Rõ ràng, trong thời đại giao lưu, mở cửa và kinh tế thị trường, các phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò lớn trong đời sống cũng như việc hưởng thụ văn hóa của người dân nói chung và người nông dân nói riêng, mặc dù hiện nay phương tiện truyền thông ở làng xã còn ít. Bên cạnh đó, hoạt động lễ hội truyền thống, VNQC và các phong trào văn hóa như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phong trào xây dựng Làng văn hóa và nhiều phong trào xã hội khác… cũng được đánh giá ở mức trung bình và có khả năng phát triển. Các hoạt động thư viện, bảo tàng, hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp chưa thực sự có chất lượng, chưa gắn bó được với đời sống quần chúng nhân dân nên chưa được ưa thích và ít phát huy tác dụng. Trong tương lai, các hoạt động này cần gắn chặt chẽ với truyền thông đại chúng để tạo cơ hội phát triển, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người nông dân. Đặc biệt, các hoạt động này ở nông thôn cần gắn với hệ thống truyền thông ở từng địa phương cụ thể.
Có thể thấy, theo quan niệm của người dân nông thôn, muốn tăng cường hoạt động văn hóa và do đó, gia tăng mức độ hưởng thụ văn hóa của người nông dân thì phải kết hợp nhiều hình thức hoạt động, trong đó nổi bật là đẩy mạnh phong trào xây dựng GĐVH, tổ chức VNQC ở địa phương, phát triển phong trào xây dựng Làng văn hóa, xây dựng khu vui chơi giải trí, xây dựng phòng đọc sách… Như vậy người nông dân đánh giá cao các hình thức tạo điều kiện cho dân tự làm văn hóa. Những hình thức khác mang tính giao lưu, hưởng thụ thụ động như mời đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, mời VNQC nơi khác đến biểu diễn cũng được coi là quan trọng nhưng thực tế, chưa phải là hoạt động thường xuyên. Các hoạt động khác như tổ chức dịch vụ văn hóa, sưu tầm nghiêm cứu văn hóa dân gian, TTLĐ được đánh giá vừa phải, mặc dù đây là những hoạt động vô cùng quan trọng để góp phần xây dựng văn hóa nông thôn. Có thể nói, những hình thức hoạt động mà người nông dân có thể tham gia là những hoạt động được họ chú ý quan tâm, phù hợp với định hướng xã hội hóa văn hóa và xây dựng văn hóa cơ sở ở nông thôn. Tuy nhiên, về lâu dài, cần kết hợp được nhiều hình thức hoạt động trong một cụm thiết chế văn hóa ở nông thôn để vừa huy động tiềm năng của người nông dân vừa đem đến cho họ những giá trị văn hóa mới. Có như vậy hoạt động của thiết chế văn hóa mới thực sự đi vào đời sống người nông dân, đem lại lợi ích đích thực cho người nông dân.
Cưới xin là một sinh hoạt văn hóa gắn bó với đời sống mỗi con người, mỗi gia đình, trở thành một hoạt động không thể thiếu trong cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng người dân ở nông thôn.
Thống kê cho thấy đám cưới ở nông thôn hiện nay có rất nhiều yếu tố xuất hiện và sự làm theo từng yếu tố của người nông dân cũng có những biến động phức tạp. Những yếu tố được nhiều người chú ý làm theo là: lễ gia tiên, lễ ăn hỏi, lễ lại mặt, lễ chạm ngõ… còn các yếu tố khác ít được quan tâm. Như vậy, có thể nói quy trình đám cưới hiện nay tuân thủ 4 yếu tố chính vừa nêu và phù hợp với tập tục cưới xin của người Việt, dù ở nông thôn hay đô thị. Còn tùy vào từng nhu cầu cụ thể của gia đình, tập tục cụ thể của từng địa phương mà đám cưới có thể xuất hiện những yếu tố phụ trợ như: cho của hồi môn, mượn người trải chiếu, lễ tơ hồng… Một điểm đáng chú ý là lệ nộp cheo, dù còn rất ít nhưng vẫn thể hiện sự tác động của lệ tục đối với đời sống tinh thần người nông dân ở một số thôn làng.
Có thể nói, hoạt động cưới xin ở thôn làng đã có được những bước chuyển biến đáng kể, đã tiết kiệm, đỡ tốn kém, gọn gàng, không gây ảnh hưởng phức tạp cho xã hội và theo đời sống mới. Tuy nhiên, hiện nay ngoài sự kết hợp hài hòa cũ mới, hiện tượng cưới xin ở nông thôn đang tái xuất hiện một số yếu tố như ăn uống linh đình, rượu chè, bài bạc… là vấn đề nảy sinh cần chú ý. Cưới theo nếp sống mới, dù đang trở thành một vấn đề được tuyên truyền rộng, được cả xã hội quan tâm và đang thấm dần vào đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động, song vẫn còn là vấn đề cần được tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ và có giải pháp cũng như mô hình cụ thể, đặc biệt là ở nông thôn.
Bên cạnh cưới xin, đối với đời sống người nông dân, tang lễ cũng là một sinh hoạt cần chú trọng. Cho dù hiện nay tồn tại cùng lúc nhiều hình thức tang lễ khác nhau, nhưng sự kế thừa những quy chế về tang ma truyền thống kết hợp với những yếu tố hiện đại có tính phù hợp đã trở thành xu thế tương đối mạnh trong tang lễ. Dù sao, vẫn còn tồn tại việc tang theo lối cũ với những hủ tục cần được xóa bỏ. Như vậy cần chú ý tới mối tương quan giữa các hình thức cũ và mới, sự kết hợp cũ - mới trong từng lớp người, từng nhóm đối tượng dân cư, từng địa phương cho phù hợp với cảm quan tâm lý, tính cách cộng đồng… trong việc thực hành tang lễ. Tuy nhiên xu thế kết hợp cũ và mới cũng như tang lễ đơn giản theo lối mới đang ngày càng mạnh và chiếm ưu thế.
Chỉ xét riêng về những yếu tố được nhiều người theo trong tang chế ở nông thôn, cũng có thể hình dung được phần nào độ phức tạp trong quan niệm của người nông dân về tang lễ. Đáng chú ý là các lễ cúng được nhiều người tuân thủ cúng 3 ngày, cúng 49 ngày và cúng 100 ngày. Tiếp theo là các yếu tố khác như mời ban nhạc hiếu, che mặt người khuất, đốt vàng mã, đội mũ rơm, mặc áo xô… Tuy nhiên, ngoài việc chú trọng các ngày cúng thì tục che mặt người khuất, nhạc hiếu được phần lớn mọi người tuân thủ, các yếu tố còn lại thì tùy vào từng địa phương, từng làng, tứng dòng họ, từng gia đình mà mỗi đám tang cụ thể có những sự lựa chọn khác nhau. Trừ một vài yếu tố chưa phù hợp như khóc mướn, quàn tại nhà quá 24-36 giờ thì những yếu tố xuất hiện trong tang lễ người nông dân là chấp nhận được trong tiến trình nghi lễ. Cái đáng để ý là xem họ tổ chức đám tang ra sao, có phù hợp với tập tục truyền thống cũng như tinh thần tang lễ mới không và quan trọng hơn, người nông dân tự đánh giá cái được và chưa được trong tổ chức tang lễ ở địa phương như thế nào. Vì thế trách nhiệm của các nhà quản lý xã hội, quản lý văn hóa ở nông thôn là hết sức nặng nề, trong đó đáng chú ý phải đưa các cuộc vận động về xây dựng Làng văn hóa, GĐVH ăn sâu vào từng hộ dân để họ tiếp tục có những biến đổi tốt trong việc lễ tang và các việc khác, góp phần đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Lễ hội truyền thống được đánh giá là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian tổng thể rất phù hợp và hữu ích với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói chung và người dân nông thôn nói riêng. Gần đây, lễ hội truyền thống được phục hồi ở nhiều địa phương, tạo nên một sinh hoạt văn hóa cộng đồng phong phú, bổ ích. Tuy nhiên, bên cạnh những cái được như: là  dịp để cộng đồng dân cư tìm lại cội nguồn văn hóa thông qua thực hành lê hội, tăng cường tình đoàn kết cộng đồng, gia đình trong làng xóm, mở ra môi trường sinh hoạt văn hóa, giải trí cho người nông dân…, hoạt động lễ hội ở nông thôn cũng như đô thị đang rất phức tạp, nảy sinh nhiều hiện tượng không phù hợp với chuẩn mực đạo đức và văn hóa của nước ta.
Có thể thấy ở nông thôn, việc mở hội làng hàng năm là khá phổ biến và lễ hội, với yếu tố chủ đạo là nhân vật được phụng thờ, đã ăn nhập khá sây vào tâm thức người nông dân. Bên cạnh việc định danh tính nhân vật được phụng thờ, việc tìm hiểu những hình thức nghi lễ chính trong lễ hội như rước, xách, tế, lễ… cho phép có một cái nhìn toàn diện hơn về đời sống tâm linh của người nông dân trong lễ hội và những yếu tố thu hút họ dự lễ hội. Người dân nông thôn ít được thưởng thức văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệph, vì thế, ngoài VNQC, với họ thì lễ hội truyền thống và những yếu tố cấu thành nó, mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Lễ hội đã đáp ứng cả những nhu cầu chung mang tính cộng đồng lẫn những nhu cầu riêng tư của cá nhân con người từ giữ gìn truyền thống văn hóa, tăng cường giao lưu cộng đồng, tấm lòng đối với những thế hệ trước… đến việc vui chơi thưởng ngoạn và cầu ước cho nguyện vọng riêng. Một số không nhiều người chưa hoặc không tham dự lễ hội cho biết lý do cản trở họ đối với lễ hội ở hai khía cạnh: phía lễ hội và phía bản thân họ. Cách thức tổ chức kém, những tệ nạn, hủ tục như mê tín dị đoan, ăn xin ăn mày, sự o ép về dịch vụ là nguyên nhân cản trở người nông dân đến với lễ hội. Tuy nhiên cũng có nguyên nhân do nhận thức và tri thức cá nhân: cảm thấy vô bổ, không có ích. Thực ra hoạt động lễ hội, như chúng ta từng biết, là hoạt động văn hóa nghệ thuật tổng hợp đáp ứng được cả một hệ thống nhu cầu của con người, hết sức bổ ích và có tác dụng. Vấn đề tuyên truyền, phổ biến giá trị của loại hình văn hóa cộng đồng này, vì thế, cần được tiếp tục đẩy mạnh.
Nông thôn Việt Nam hiện còn lưu giữ khá nhiều phong tục tập quán cần chú tâm tìm hiểu. Trong số rất nhiều những phong tục ấy, có những làng có hầu như tất cả, có những làng còn lại vài phong tục chính, nhưng hầu như người nông dân nào cũng khẳng định sức mạnh, tính tích cực của phong tục, tập tục trong sinh hoạt văn hóa ở nông thôn. Về tập tục hiện có ở nông thôn, người dân chú ý lễ mừng thọ, cúng gia tiên, cúng ông công ông táo, tục lên lão, cúng thổ địa, cúng thành hoàng, lệ khuyến học, lệ bán con cho chùa, tục kết chạ, hội thi đọc sử làng, lễ thôi nôi… Như vậy, có thể thấy trong sự phong phú, thậm chí phức tạp của sự tồn tại các tập tục tại nông thôn, có sự tập trung tôn vinh một số tục đẹp, phù hợp với truyền thống sinh hoạt và văn hóa truyền thống như: lễ mừng thọ, lễ cúng gia tiên, tục lên lão, thờ thành hoàng, lệ khuyến học. Đó là xu hướng cần được hỗ trợ, khuyến khích. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cần xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng để loại bỏ dần những hủ tục vẫn còn đây đó trong đời sống sinh hoạt làng xã, trong đó các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, đặc biệt là cầu cúng, hủ tục trong lễ hội…
Trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự phát triển kinh tế xã hội, văn hóa nông thôn đang đứng trước những thuận lợi cơ bản cũng như những thách thức không nhỏ. Sự biến động về quy luật phát triển và thực trạng biểu hiện của kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn vẫn đang diễn ra một cách nhanh chóng và chắc chắn sẽ có những thay đổi trong tất cả những yếu tố đã nêu. Nhưng dù có biến đổi thế nào, thì với những gì được thể hiện, văn hóa nông thôn cả nước nói chung vẫn giữ được cho mình những hằng số văn hóa. Đó là sinh hoạt văn hóa mang đậm nét dấu ấn, phong vị văn hóa văn minh nông nghiệp trồng lúa nước với cơ cấu tổ chức xã hội thôn làng tương đối khép kín, nay có điều kiện để trở thành một pháo đài, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; là sự bền vững phong phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa dân gian thôn làng kết hợp với sự gia tăng ngày càng nhiều hình thức sinh hoạt và hưởng thụ văn hóa hiện đại, tạo điều kiện cho người dân sáng tạo và hưởng thụ văn hóa nhiều hơn, cao hơn; là dân trí ngày càng được nâng cao bởi sự phát triển kinh tế hộ, kinh tế làng, khiến mức sống của người dân tăng lên khá ổn định, tạo điều kiện gia tăng khả năng học tập, dịch chuyển, giao tiếp dưới nhiều hình thức;  là ý chí vươn lên của người nông dân trong tất cả các lĩnh vực học tập vốn có truyền thống từ xưa (với lệ khuyến học); là rất nhiều nét đẹp trong giao tiếp, ứng xử, thực hành văn hóa của người nông dân… Với hành trang văn hóa ấy người nông dân đang tự nâng mình để xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày càng  giàu đẹp, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện đại, có mặt bằng dân trí và văn hóa cao.
 
theo vhttcs.org.vn
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Thư viện Hình ảnh



Thăm dò ý kiến

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM nên theo chỉ tiêu nào?

Số xã về đích (đạt 19/19 tiêu chí)?

Tổng số tiêu chí đạt chuẩn?

Tổng mức độ tiến bộ của tất cả các tiêu chí (theo phương pháp chấm điểm)?

Phương án khác?

Thời tiết - Tỷ giá

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 235

Máy chủ tìm kiếm : 2

Khách viếng thăm : 233


Hôm nayHôm nay : 54675

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 843241

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 71070556