07:15 EST Thứ bảy, 21/12/2024
CHỦ ĐỀ HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HCM CỦA VP ĐIỂU PHỐI NTM HÀ TĨNH "GƯƠNG MẪU, CHỦ ĐỘNG, TÂM HUYẾT, KHOA HỌC, HIỆU QUẢ"

Menu Hệ thống

Tư vấn chính sách
Văn bản Pháp luật
Văn bản Pháp luật
Điều hành tác nghiệp Hà Tĩnh
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Cổng Thông tin Điện tử Hà Tĩnh
Công báo Hà Tĩnh
Báo Nông nghiệp Việt nam
Khuyến nônng Việt Nam
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tĩnh

TRANG CHỦ » Tin Tức » Nhiều người quan tâm


Đối tác chiến lược ngành in bạt quảng cáo

in bạt hiflex - in decal pp - in decal ngoài trời - in băng rôn

Vực dậy trái cây vùng Nam bộ

Thứ năm - 05/07/2012 04:30
“Tiềm năng cây ăn quả Nam bộ là rất lớn. Vì chỉ có Nam bộ mới có điều kiện khí hậu nhiệt đới, sản xuất được xoài, thanh long, vú sữa, sầu riêng, chôm chôm, nhãn nhiệt đới... quanh năm được. Mấy năm qua, xuất khẩu trái cây chủ yếu cũng là từ đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đây là khu vực trái cây nhiệt đới cho trái 4 mùa, quanh năm nên rất thuận lợi cho việc phát triển” - PGS.TS Nguyễn Minh Châu - Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam đánh giá.

 

 Tuy nhiên, tiềm năng của cây ăn quả vùng Nam bộ vẫn chỉ là “tiềm năng”, khi người nông dân vẫn loay hoay với đầu ra cho sản phẩm cùng điệp khúc “được mùa rớt giá”. Và mặc dù sản lượng lớn, nhưng trái cây vùng Nam bộ cũng chỉ quẩn quanh ở “sân nhà” mà chưa thể tiếp cận thị trường thế giới.
 

Chưa xứng với lợi thế

 


Khu vực ĐBSCL có khoảng 288.300 ha cây ăn quả, cho sản lượng khoảng 7 triệu tấn/năm, chiếm 70% tổng sản lượng trái cây cả nước. Nhiều loại trái cây được biết đến với chất lượng ngon như vú sữa, bưởi, sầu riêng, xoài, thanh long, chôm chôm, măng cụt, quýt, cam sành, khóm (dứa)... được trồng khắp các tỉnh, thành Nam bộ. Trong đó, tỉnh Tiền Giang được mệnh danh là "Vương quốc trái cây" khi toàn tỉnh có gần 70.000 ha đất trồng cây ăn quả, cho sản lượng trên 1 triệu tấn/năm.

 

Theo ông Cao Văn Hóa – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang, tiềm năng cây ăn quả của tỉnh là rất lớn. Hầu hết các loại cây trái vùng nhiệt đới thì Tiền Giang đều có cả. Tiền Giang cũng là địa phương tập trung nhiều giống cây ăn quả “có tiếng”, có giá trị xuất khẩu, như vú sữa Lò Rèn, khóm Tân Lập, xoài cát Hòa Lộc, thanh long Chợ Gạo, sơri Gò Công, bưởi long Cổ Cò, sầu riêng, nhãn xuồng, chôm chôm... Hiện thu nhập bình quân của nhà vườn trồng cây ăn quả ở Tiền Giang đạt 100 triệu đồng/ha/năm. Nếu so với trồng lúa, trồng cây ăn quả mang lại hiệu quả cao hơn nhiều lần. 

 

Anh Mười Đông ở xã Hoàn Long (Châu Thành, Tiền Giang), cho biết: “Tôi chỉ có khoảng 7.000m2 đất trồng vú sữa Lò Rèn vụ thu hoạch vừa qua, mặc dù “rớt” giá nhưng vẫn lãi được trên 70 triệu đồng. Mặc dù vú sữa mỗi năm chỉ có một vụ, nhưng với mức thu nhập này thì vẫn là cây mang lại hiệu quả”.

Khách mua trái cây tại Lễ hội trái cây Nam bộ 2012. 
Ảnh: Phương Vy - TTXVN.


Mặc dù có lợi thế rất lớn về diện tích và sản lượng, nhưng cây ăn quả vùng ĐBSCL nói chung và Tiền Giang nói riêng vẫn thật sự chưa phát huy được giá trị để có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Ngoài một vài loại cây ăn quả thời gian qua có được thị trường xuất khẩu như bưởi da xanh, vú sữa Lò Rèn, xoài cát Hòa Lộc, chôm chôm... thì nhiều loại cây khác chỉ tiêu thụ nội địa. 

 

Do trùng lắp mùa vụ nên điệp khúc “được mùa, rớt giá” hay “thất mùa, trúng giá” cứ “gắn bó” với người nông dân, ngay cả mặt hàng trái cây có thị trường xuất khẩu được như vú sữa: Đầu vụ có lúc lên gần 120.000 đồng/kg, nhưng khi thu hoạch rộ thì giá tụt xuống chỉ còn trên dưới 10.000 đồng/kg. Hay trái thanh long, có thời điểm giá vượt lên 15.000 - 20.000 đồng/kg, nhưng có lúc sụt xuống còn 3.000 - 4.000 đồng/kg. Theo ông Nguyễn Văn Ngàn –Chủ nhiệm Hợp tác xã vú sữa Lò Rèn (Châu Thành-Tiền Giang), chỉ có xuất khẩu được thì mới giữ giá cao và ổn định.


Theo đánh giá của các nhà khoa học, diện tích cây ăn quả của khu vực ĐBSCL khá lớn, nhưng sản xuất manh mún, chất lượng trái cây chưa đồng đều; các mô hình thực hành nông nghiệp tốt như Global GAP, Viet GAP chưa được người dân quan tâm ứng dụng hoặc triển khai rộng rãi. Bên cạnh đó, “lối thoát” cho sản phẩm hiện nay chủ yếu vẫn là tiêu thụ trong nước, chưa tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Chẳng hạn, chỉ riêng mặt hàng bưởi Năm Roi, sản lượng trung bình là 250 tấn/năm nhưng đa phần chỉ sản xuất tiêu thụ trong nước, còn tỷ lệ bưởi xuất khẩu chỉ khoảng 20% trên tổng sản lượng. 

 

Tiến sĩ Võ Mai – Phó Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, nhận xét: "Bây giờ cơ chế thị trường mở cửa. Trái cây của người ta tràn vô nước mình và trái cây mình ra nước người ta là chuyện bình thường. Nhưng mà sản xuất trái cây của mình kém chất lượng quá nên không cạnh tranh được để trái cây ngoại chiếm lĩnh thị trường”. TS Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Những đặc sản của chúng ta chưa thể xuất khẩu nhiều do chưa có số lượng lớn (không có vùng chuyên canh), chưa được đóng gói đẹp và chưa được tiếp thị nhiều trên thế giới như Thái Lan, do vậy mà không thể cạnh tranh với trái cây nhiệt đới của Thái Lan. 

 

Điều này cũng dễ hiểu vì họ đã bắt đầu chú ý phát triển cây ăn trái trước chúng ta, chúng ta chỉ mới chú ý chừng 20 năm trở lại đây với sự đánh dấu bằng việc thành lập hai viện nghiên cứu, ở Mỹ Tho và Gia Lâm. Ngoài ra, sự liên kết ở Việt Nam cũng không có nên rất khó đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất như ở các nước khác”.

 

PGS.TS Nguyễn Minh Châu – Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam:

Để nâng cao giá trị của cây ăn trái nhằm xuất khẩu, để vừa đảm bảo tốt đầu ra cho nông dân vừa tăng giá trị kinh tế cho cây ăn quả; đồng thời xây dựng thương hiệu cho cây ăn quả của Việt Nam thì giải pháp trước tiên là sự quan tâm nhiều hơn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các tỉnh. Thứ hai là cần có quy hoạch sản xuất những cây có lợi thế (hiện nay chưa có quy hoạch nên sản xuất tự phát). Thứ ba là quy hoạch xong phải có chỉ định ai thực hiện và chính sách hỗ trợ như thế nào, chứ không nên quy hoạch cho có mà thiếu chính sách, thiếu người chịu trách nhiệm. Thứ tư là Nhà nước phải hỗ trợ các nhà đầu tư, nhà đóng gói trái cây (hiện nay đóng gói rất lạc hậu so với Thái Lan), hỗ trợ các nghiên cứu về chế biến trái cây, tạo nhiều sản phẩm chế biến hơn. Thứ năm là củng cố các hợp tác xã với nhiệm vụ là cầu nối giữa nông dân và nhà nước, tạo điều kiện để hợp tác xã có cửa hàng thu mua sản phẩm cho nông dân và bán lẻ với giá rẻ cho người tiêu thụ. Thứ sáu - rất quan trọng, là phải ủng hộ các mô hình sản xuất GAP để người tiêu dùng Việt Nam không phải ăn các sản phẩm không an toàn nữa. Phải củng cố cho được mối liên kết nghiên cứu và khuyến nông, giữa sản xuất và tiêu thụ, nếu để mạnh ai nấy làm như hiện nay thì sẽ phát triển rất chậm. Theo tôi thì Trung ương và địa phương phải chịu trách nhiệm là người chỉ đạo, hỗ trợ cho sản xuất phát triển chứ không phải ai khác.

TS Võ Mai - Phó Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam:

Nên quy hoạch vùng trái cây tập trung, bởi trái cây của ta ngon nhưng phải có vùng chuyên canh 5.000-7.000 ha trở lên mới đủ sức xuất khẩu, còn lẻ tẻ thì chẳng làm được gì. Việc quy hoạch đầu ra cho trái cây cũng nên xem xét. Có thể quy hoạch chọn trái cây đặc sản, chất lượng để trồng tập trung, nhưng phải dựa trên đầu ra của doanh nghiệp. Phải có thị trường rõ ràng rồi mới nghĩ đến kế hoạch trồng bao nhiêu ha loại trái cây đó! Theo tôi trong liên kết 4 nhà thì đầu tiên phải là Nhà nước đứng ra chủ trì, hai là nhà kinh doanh. Hai nhà đó quyết định, rồi mới đến nhà khoa học và nhà vườn.

Ông Cao Văn Hóa – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang:

Muốn nâng tầm giá trị của cây ăn trái thì phải gắn kết với DN. Không gắn với DN thì không thành công và DN phải gắn bó với nông dân. Hiện tỉnh đã mời DN tham gia, nhưng chưa có DN nào đáp ứng được yêu cầu. Chỉ có DN hợp tác với nông dân mới tạo thế ổn định từ đầu vào cho tới đầu ra; đồng thời giúp cơ quan Nhà nước dễ quản lý, hỗ trợ kĩ thuật dễ dàng.

Anh Trần Ngọc Hải – nông dân trồng vú sữa Lò Rèn theo Global GAP ở ấp Thạnh Hòa, xã Lâm Hưng, huyện Châu Thành –tỉnh Tiền Giang:

Tôi thấy tham gia vào mô hình Global GAP có hiệu quả tốt hơn, bởi sản phẩm làm ra không chỉ đẹp hơn về mẫu mã mà giá thu mua lúc nào cũng cao hơn so với sản xuất theo kiểu truyền thống. Bên cạnh đó, chúng tôi còn được hỗ trợ kĩ thuật trong sản xuất, giúp tăng năng suất hơn so với trước đây. Mặc dù ai nói khó, tôi vẫn quyết theo mô hình sản xuất này.

 

Cần có sự liên kết, hỗ trợ


Để nâng tầm giá trị của cây ăn quả vùng Nam bộ, theo TS Nguyễn Minh Châu thì cần phải có sự quy hoạch lại theo hướng liên kết vùng. Ông cho rằng, thực chất quy hoạch vùng cây ăn quả tập trung ở Nam bộ đã có từ năm 1998, nhưng từ đó đến nay quy hoạch chỉ nằm trên giấy. “Để phát triển vùng cây ăn quả tập trung, Nhà nước phải có quy hoạch, sau đó phải ra chính sách hỗ trợ vùng sản xuất tập trung và phải chỉ định người chịu trách nhiệm xây dựng vùng tập trung”. 

 

Còn theo Phân Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp miền Nam, muốn làm quy hoạch cây ăn quả thì phải làm đến từng nông hộ, như vậy mới có thể quản lý bằng truy xuất nguồn gốc sản xuất phục vụ xuất khẩu.

Niềm vui được mùa của ông Nguyễn Văn Danh (xã Hưng Khánh Trung B, huyện Chợ Lách). Ảnh: Mạnh Linh-TTXVN


TS Võ Mai cho rằng, Bộ NN&PTNT phải phối hợp với Bộ Công Thương, Hiệp hội Rau quả Việt Nam nghiên cứu kỹ thị trường, cung cầu của từng loại trái chủ lực của các quốc gia xuất khẩu lớn, trên cơ sở đó mới có căn cứ để quy hoạch trái cây theo thế mạnh của mình. “Quy hoạch cũng phải gắn với chính sách đặc biệt để hình thành các doanh nghiệp (DN) trái cây đủ lớn, đủ mạnh, đủ “tầm” thương hiệu để đưa trái cây ra với thế giới”. 

 

Riêng ông Phạm Văn Dư - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt phụ trách phía Nam – Bộ NN&PTNT, cho rằng cũng cần chú trọng cách xây dựng các kênh tiêu thụ sản phẩm trực tiếp từ cơ sở sản xuất đến các chợ, hệ thống siêu thị có uy tín ở các đô thị lớn trên cả nước. Ngoài ra, việc thành lập các DN, hợp tác xã tiêu thụ trái cây sẽ làm cầu nối giữa nhà vườn và các công ty xuất nhập khẩu; đồng thời xúc tiến nhanh việc xây dựng, đăng ký và khai thác thương hiệu; tiến tới khuyến khích và hỗ trợ hội viên và các DN trong ngành trái cây đăng ký bảo hộ tên giống và các DN xuất khẩu trái cây đăng ký thương hiệu ở các thị trường chính.


Theo khảo sát của Phân Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp miền Nam, hiện ở ĐBSCL mỗi tỉnh chỉ có một vài cơ sở chế biến đóng gói nên gây không ít khó khăn cho sản phẩm khi muốn vận chuyển đi xa. Vì thế, cơ quan này đề nghị Bộ NN&PTNT cần có chính sách hỗ trợ DN, thương lái để họ đầu tư những cơ sở chế biến, đóng gói sản phẩm, giúp ngành thu mua, bảo quản sau thu hoạch phát triển song song với phần quy hoạch vùng cây ăn trái tập trung mà các tỉnh Nam bộ đang tiến hành.


Ngoài ra, theo đánh giá của các chuyên gia, mức độ liên kết từ trồng, chế biến và xuất khẩu trái cây giữa nhà nước, nhà DN, nhà khoa học và nhà vườn ở Việt Nam nói chung và vùng Nam bộ nói riêng chưa chặt chẽ. Chính vì thế, để nâng cao giá trị trái cây, giữa 4 nhà này phải có sự liên kết chặt chẽ. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò "đầu tàu" trong việc quy hoạch vùng trồng cây ăn trái, là cầu nối giữa các nhà còn lại trong việc trợ vốn, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng thương hiệu, bao tiêu sản phẩm.


Đẩy mạnh ứng dụng GAP


Mặc dù từ năm 2009, Bộ NN&PTNT đã có chỉ thị số 4136/CT-BNN-TT về phát động phong trào thi đua áp dụng Thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP) nhưng vẫn còn ít nông dân thực hiện. Theo TS Nguyễn Minh Châu, việc ứng dụng GAP vào sản xuất là một cách để dần nâng cao chất lượng sản phẩm, hướng đến sản phẩm sạch, an toàn và từ đó mới có thể đưa trái cây của Việt Nam ra thị trường thế giới. 

 

Theo ông, việc nhà vườn hiện nay ít quan tâm đến việc thực hiện các mô hình GAP trong sản xuất là do không có kinh phí để tái chứng nhận và do giá bán rau quả đã được chứng nhận chưa cao hơn giá bán của những sản phẩm không được chứng nhận. “Theo tôi, hai nguyên nhân này có thể khắc phục được, nếu có sự quan tâm hơn của chính quyền và DN địa phương nơi có mô hình cần được tái chứng nhận. Chi phí hỗ trợ để mô hình GAP được tái chứng nhận không lớn, chỉ khoảng 40 triệu đồng, nếu là tiêu chuẩn VietGAP. Còn giá bán sản phẩm GAP chưa cao hơn, nếu DN thu mua quan tâm đến việc ưu tiên chọn những nơi đạt tiêu chuẩn GAP thì nhà vườn sẽ phấn khởi”.


Theo TS Nguyễn Minh Châu, ứng dụng GAP vào quy trình sản xuất trước nhất có lợi cho người nông dân, bởi họ sẽ được an toàn nhờ biết loại thuốc bảo vệ thực vật nào là được phép sử dụng, có lợi cho môi trường sống khi họ không còn vứt bỏ vỏ chai thuốc bừa bãi sau khi sử dụng hết như trước đây. Còn đối với người tiêu dùng, sẽ mạnh dạn ăn rau quả mà không phải lo lắng có an toàn hay không. Đối với việc xuất khẩu, nếu không được chứng nhận đã đạt tiêu chuẩn GAP thì không được Cục Bảo vệ thực vật và đại diện nước nhập khẩu cấp mã CODE hay “visa” cho nhập khẩu vào nước họ. 

 

“Viện sẽ tiếp tục xây dựng mô hình sản xuất GAP, nghiên cứu tạo giống mới với chất lượng cao hơn cho cam, quýt, bưởi, thanh long và kĩ thuật sản xuất trái cây an toàn, vệ sinh thực phẩm và nhiều sản phẩm chế biến nữa nếu được Nhà nước quan tâm cấp tiền cho các nghiên cứu về lĩnh vực này. Viện chúng tôi cũng mong ước Nhà nước sẽ cải thiện mối liên kết lỏng lẻo hiện nay, nếu có sự cải thiện này, chắc chắn Viện chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tuyên truyền các tiến bộ mới cho bên khuyến nông và cho nhà vườn” - TS Nguyễn Minh Châu khẳng định.

 

Minh Thuyết
Nguồn:baotintuc.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Thư viện Hình ảnh



Thăm dò ý kiến

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM nên theo chỉ tiêu nào?

Số xã về đích (đạt 19/19 tiêu chí)?

Tổng số tiêu chí đạt chuẩn?

Tổng mức độ tiến bộ của tất cả các tiêu chí (theo phương pháp chấm điểm)?

Phương án khác?

Thời tiết - Tỷ giá

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 144

Máy chủ tìm kiếm : 2

Khách viếng thăm : 142


Hôm nayHôm nay : 33139

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 897163

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 72579872